Chia sẻ

Tre Làng

Những 'chuồng học' ở Lai Châu: Xập xệ những ngôi trường

(NNVN) - Trở lại Lai Châu tới thăm một số ngôi trường, điều tôi vô cùng kinh ngạc là sau 40 năm nhiều ngôi trường chẳng khác thời tôi dạy là mấy, vẫn là những “chuồng học”, khiến lòng tôi buồn se thắt… 

Một giờ lên lớp của thầy trò Trường tiểu học số 2 Khoen On

Tôi từng sống và dạy học gần 20 năm ở Lai Châu. Đối với tôi Lai Châu là một phần máu thịt của mình, mỗi lần lên Lai Châu lòng tôi cứ rưng rưng như trở lại cái thuở trai trẻ vượt núi đến các bản làng xa xôi dạy chữ cho lũ trẻ.

Tháng 8/1975 tôi vừa ra trường nên được điều vào Nậm Sỏ dạy học. Đây là xã xa xôi nhất của huyện Than Uyên hồi bấy giờ. Con đường chỉ là lối mòn vừa đủ hai người tránh nhau. Tháng 8 đang là giữa mùa mưa, dòng suối Nậm Mu đục ngầu cuồn cuộn chảy, từ trên dốc Phiêng Bay nhìn xuống dòng suối như con trăn đất quằn quại xiết vào lòng núi gào thét điên cuồng.

Qua suối Nậm Mu ngày ấy là con thuyền độc mộc được làm bằng thân cây gỗ dài chừng 7-8m do những trai bản Phiêng Bay được dân bản cắt cử ra chèo thuyền. Giữa dòng nước hung dữ con thuyền mỏng manh như chiếc lá trôi băng trên dòng nước xiết, người chèo thuyền chỉ sơ ý một chút là con thuyền lật nhào. Bước chân lên thuyền vào mùa lũ, chúng tôi phó mặc số phận cho người cầm lái, bởi đã có cô giáo thiệt mạng do lật thuyền khi qua dòng Nậm Mu.

Đường vào Nậm Sỏ phải vượt qua hai cái dốc dài và dựng đứng như mặt ngựa là Huổi Mèn và Ngam Kha. Tôi không còn nhớ mình đã vượt qua hai cái dốc này bao nhiêu lần trong suốt 4 năm trời dạy học, nhưng còn nhớ như in các lớp học làm bằng tre nứa, mái lợp cỏ tranh mà ngày ngày tôi lên lớp dạy chữ cho lũ trẻ.

Năm nào cũng vậy, trước ngày khai giảng độ nửa tháng, chúng tôi phải vào trường vận động bà con sửa sang lại lớp học, bàn ghế. Lớp học ngày ấy là những túp lều tranh thấp lè tè, phên vách đan bằng nứa hở huếch hở hoác, bàn học sinh là những thân cây gỗ bổ bằng rìu chỉ rộng hơn trang vở một chút, còn ghế là các cây vàu gác qua hai cành cây có chạc chôn xuống đất. Mùa đông gió núi thổi hun hút, cả thầy và trò đều rét run. Những lớp học như thế chẳng hơn gì chuồng trâu, chuồng ngựa của người dân, chúng tôi vẫn đùa vui đó là “chuồng học”.

Hai phòng học ở điểm trường Mùi 1, Trường tiểu học số 2 Khoen On

Khi Than Uyên được tách ra thành hai huyện Tân Uyên và Than Uyên, Nậm Sỏ trở thành xa xôi và khó khăn bậc nhất của Tân Uyên, năm 2009 tôi có dịp trở lại Nậm Sỏ. Mừng vì Nậm Sỏ đã có một số phòng học xây, nhưng vẫn còn nhiều “chuồng học” tôi xin được nói ở cuối bài viết này.

Xuôi theo con đường xuống công trình thủy điện Huội Quảng nằm trên đất xã Khoen On. Từ trung tâm xã tôi ngược một cái dốc dài vào bản Mùi chừng 8 cây số, nơi đây có 3 trường học vừa được tách ra. Tiếp tôi là thầy Phạm Hữu Trung, hiệu trưởng trường tiểu học số 2 Khoen On, điều đầu tiên thầy Trung cho biết: Điểm trường chính cũng như phòng làm việc của hiệu trưởng, hiệu phó đang ở nhờ trường trung học cơ sở. Trường có 18 lớp, ngoài 3 phòng học xây ở điểm bản Mùi I và 7 phòng mượn trường THCS, nhà văn hóa thôn bản còn lại 8 phòng học tạm ở các điểm trường: Mùi I, Tà Lồm, Hua Đán tất cả đều xập xệ và có thể sập đổ bất cứ lúc nào…

Ngồi trong lớp hay ngoài trời đây?

Tôi theo thầy Phạm Hữu Trung sang điểm trường Mùi I, thật kinh hoàng trước điểm trường này. Điểm trường nằm lọt thỏm giữa những ngôi nhà sàn của các hộ dân không tường rào, lợn gà thả rông của các hộ dân quanh đó mặc sức “hành quân” và phóng uế quanh các lớp học. Điểm trường được gọi là “khang trang” nhất, ngoài 3 phòng xây còn lại 2 phòng học tạm cho 6 lớp học, trong đó có một lớp học ghép .

Không lời nào tả hết về các phòng học tạm ở đây, lớp học bằng gỗ, các cột kèo đều đã bị mối mọt, mộng mẹo nứt toác “há miệng” hết cả ra, gió bão có thể quật đổ bất cứ lúc nào. Vách được thưng bằng những tấm gỗ tận dụng vá víu, chằng đụp các kiểu mà vẫn không thể nào kín được. Chẳng lớp nào có cửa, mà có cửa cũng chẳng ích gì, gió núi và sương mù cứ thông thống ùa vào, mùa đông ngồi trong lớp cũng như đứng giữa trời. Lớp học như thế là nơi lý tưởng cho bầy gia súc thả rông trú ngụ qua đêm.

Thầy Trung bảo tôi: Cơ sở vật chất điểm trường Mùi I này là khá nhất, còn các điểm trường Tà Lồm, Hua Đán thì điêu tàn hơn nhiều…
Thầy giáo hiệu trưởng Phan Hữu Trung trò chuyện các em học sinh

Tôi không tới được Tà Lồm, Hua Đán vì cách điểm trường chính gần chục cây số đường dốc dựng đứng. Nhìn những phòng học ở đây đủ hình dung ra các lớp học ở các điểm trường lẻ là như thế nào rồi.

Trường Mầm non số 2 Khoen on còn tồi tệ hơn nhiều, trường có 7 lớp với 184 học sinh ở 4 điểm bản, nhưng chỉ có một điểm bản Hua Đán được cấp sổ đỏ còn lại 3 điểm đang dựng nhờ trên đất của người dân. Cô Lìm Thị Lê, hiệu trường nhà trường cho biết: Đầu năm học mới người dân đã đòi lại đất ở bản Mùi II, nhà trường cùng xã phải thuyết phục mãi họ mới đồng ý cho dựng nhờ đến cuối năm học. Trường đã được quy hoạch, nhưng chưa biết đến bao giờ mới được bàn giao đất và khi nào có kinh phí để xây dựng trường…

Lớp học của các cô giáo mầm non Tòng Thị Son, Lìm Thị Hơn và Lò Thị Thận đều dựng tạm bằng các cây que, nền đất. Mùa mưa thì ẩm ướt còn mùa khô thì lầm bụi, vách đóng tạm bằng các ván gỗ nhưng đều hở hông hốc, các cô giáo phải lấy các tấm bạt quây lại cho đỡ gió.

Giờ ra chơi của lớp Mẫu giáo số 2 Khoen On

Ngược lên Mường Khoa thuộc huyện Tân Uyên, nơi một thời tôi dạy học ở đây. Xã Mường Khoa có hai trường tiểu học, phó chủ tịch xã Lò Văn Hải dẫn tôi sang thăm Trường tiểu học Phiêng Hào nằm bên kia suối Nậm Mu. Thấy tôi đang chụp ảnh các lớp học cô giáo hiệu trưởng Nguyễn Thị Như Hoa đang dự giờ lớp 5 thấy vậy chạy ra ái ngại: Nhà báo xin thư thư cho ít phút chúng em đang dự giờ…

Thời tôi làm phó hiệu trưởng trường liên cấp I+II xã Mường Khoa, khu vực Phiêng Hào chỉ có lớp 1 và lớp 2 do thầy Lò Văn Xanh và Lù Văn Cấp dạy. Đến nay khu vực Phiêng Hào có hẳn một trường tiểu học với 21 lớp ở 9 điểm bản. Như vậy không có điểm bản nào trắng trường học. Đó là điều đáng mừng, nhưng nhìn những lớp học tạm thì tôi giật mình trước các lớp học ngày nay chả hơn gì các lớp học cách nay 40 năm cũng nằm trên chính mảnh đất này. Cô Hoa chỉ dãy lớp học vừa được lợp lại bằng các tấm tôn xanh bảo tôi: Đầu năm học các anh vào đây nhìn các lớp học kia mới khiếp. Nhà siêu vẹo như sắp đổ, trường dùng kinh phí sửa chữa mới sửa được 3 phòng học nom đỡ sợ như thế…

Tôi hỏi phòng hiệu trưởng ở đâu, cô Hoa chỉ xuống cái phòng giáp “chuồng học” mới được lợp lại bảo: Hiệu bộ nhà trường nằm phía dưới, nhưng em ngồi làm việc ở trên này, dưới đó nóng lắm…

Cô giáo Nguyễn Thị Như Hoa với học sinh trước phòng học tồi tàn

Phòng hiệu trưởng, hiệu phó cũng hở huếch hoác, chỉ hơn các lớp học được quây bằng tấm bạt xác rắn, nhìn vào trong phòng hiệu trưởng chẳng thấy sách vở gì, hóa ra nóng quá các thầy phải ngồi nhờ trên lớp học xây của học sinh.

Cô Như Hoa cho biết: Trừ điểm trường Nậm Cung 2 được Quỹ từ thiện của Bộ Công an hỗ trợ xây dựng nhà lắp ghép cho 3 phòng học đầu năm nay, còn lại các điểm lẻ khác thì vẫn là các phòng học tạm, nhà cửa còn tồi tệ hơn khu vực trung tâm. Chúng tôi phấn đấu ba cứng cho các phòng học: Cứng cột, cứng mái và cứng nền.

Phòng làm việc của hiệu trưởng Trường tiểu học Phiêng Hào

Câu nói của cô giáo Như Hoa khiến tôi nhớ lại lời của bà Phó Phòng NN-PTNT huyện Trạm Tấu (Yên Bái) Nguyễn Thị Duyên: Để chống rét cho đàn gia súc về mùa đông, huyện Trạm Tấu đưa ra ba tiêu chí xây dựng chuồng trại cho các hộ gia đình, đó là cứng cột, cứng mái và cứng nền. Các hộ nào cam kết làm được như vậy huyện mới hỗ trợ. Nay nghe câu nói phấn đấu “ba cứng” cho các lớp học tạm ở trường tiểu học Phiêng Hào mà lòng tôi thấy chua xót.

Ông Trịnh Ngọc Hải-Trưởng phòng Giáo dục huyện Than Uyên: Huyện Than Uyên hiện còn 20% phòng họp tạm, với khoảng 120 phòng: Chúng tôi đăng ký Chương trình xóa phòng học tạm giai đoạn 2016-2020 do Tập đoàn điện lực Việt Nam hỗ trợ, nhưng chưa biết bao giờ chương trình này khởi động…

“Chuồng học” ở bản Hô So 2, Trường tiểu học Phiêng Hào 

Khi hỏi ông Nguyễn Tuấn Anh-Trưởng phòng Giáo dục huyện Tân Uyên, ông Tuấn Anh cho biết: Tân Uyên hiện còn 212 phòng học tạm, 6 phòng học nhờ, xã Nậm Sỏ đang là xã có nhiều phòng học tạm nhất…Nhìn vào bảng thống kê mà bộ phận Kế hoạch đưa cho, khiến tôi giật mình kinh hãi, xã Nậm Sỏ hiện còn 91 phòng học tạm. Nghĩa là những “chuồng học” sau 40 năm tôi rời Nậm Sỏ hiện vẫn đang tồn tại và không biết còn tồn tại đến bao giờ?

Thái Sinh
Nguồn: NNVN

16 nhận xét:

  1. Nhìn các lớp học của các em mà tôi thấy chua xót quá, tôi không hiểu rằng với lớp học thế kia các em làm sao có thể ngồi học được. Không xi măng, cốt thép, không gạch, không ngói chỉ là những tấm gỗ chắp vá lại với nhau đến đứa trẻ con còn chui lọt chứ đừng nói là mưa, nắng, bão gió. Hành trình đi tìm con chữ của các em nó nhọc nhằn quá, vất vả quá. Tôi không hiểu rằng các chính sách an sinh xã hội ở đâu mà tại sao lại không thể xây dựng cho các em có một lớp học đúng "chất". Các em đến trường được vui chơi, được phát triển các kỹ năng một cách toàn diện vậy mà đối với những em bé vùng cao nó thật là quá khổ. Mong sao các cấp chính quyền quan tâm hơn tới các em để các em được đi học, được đến trường như bao đứa trẻ khác.

    Trả lờiXóa
  2. Có thể nói, được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, nhiều chính sách về giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn đã được ban hành, tạo điều kiện để giáo dục phát triển, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực cho các địa phương.Tuy nhiên, một số nơi trong đó có Lai Châu điều kiện trường lớp vẫn còn nhiều khó khăn. Thiết nghĩ chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc, miền núi, các sở Giáo dục và Đào tạo cần tham mưu ban hành các chính sách của địa phương, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động các nguồn lực để đầu tư cho giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Các chính sách về giáo dục cần tập trung vào việc phát triển mạng lưới trường lớp, đối với trẻ em, học sinh, sinh viên DTTS, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng DTTS và miền núi, hải đảo.

    Trả lờiXóa
  3. Chuẩn như báo cáo chính trị của Sở GD - ĐT

    Trả lờiXóa
  4. Rất giống các lớp học bình dân học vụ của các phim tư liệu chiếu trên tv. Các lớp học như thế vào mùa hè có thể chấp nhận được miễn là tinh thần học của thầy cô và trò, nhưng vào mùa đông nhất là cái rét miền núi thì khổ thân các em quá. Như này thầy cô, trò làm sao bám trụ với nghiệp dạy và học được.

    Trả lờiXóa
  5. Đời sống bà con khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta còn rất nhiều vất vả, lo toan, thiếu thốn đủ mọi thứ. Chính vì vậy, lo cho con cái được cắp sách đến trường là cả một nỗi nhọc nhằn. Thời tiết ở khu vực này rất khắc nghiệt, mùa đông lạnh đến mức cái cây ngọn cỏ không chống chọi được, nhưng các em ở đây vẫn có lòng đam mê hiếu học, được cắp sách đến trường, được học cái chữ. Bên cạnh đó có những thầy cô, làm nhiệm vụ trồng người ngày đêm vất vả đem đến cái chữ cho các em học sinh vùng cao. Lòng hăng say của các em, cùng sự nhiệt huyết của thầy cô đến với các em là một sự cố gắng lớn giữa thầy và trò. Rất cần ở đó, sự hỗ trợ từ phía Đảng và Nhà nước, các quỹ tấm lòng vàng, để cho các em có nơi để học với đúng nghĩa là một ngôi trường.Nhìn cái " Chuồng học" của các em ở Lai Châu còn sơ sài, thiếu thốn đủ mọi mặt, thật đắng lòng.

    Trả lờiXóa
  6. Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách hỗ trợ cho đồng bào các dân tộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa , vùng dân tộc thiểu số, vùng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tạo điều kiện giúp đỡ họ cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là xóa nạn mù chữ. Nhưng hiện nay ở Lai Châu, điều kiện trường lớp vẫn còn quá thiếu thốn, thô sơ chỉ toàn bằng tre, nứa, không có bê tông cốt thép... Nhưng thầy trò luôn cố gắng, để các em được đến trường, được học lấy cái chữ. Rất cần những chính sách hỗ trợ của Đảng, nhà nước, quỹ tấm lòng vàng, hỗ trợ, giúp đỡ các em có 1 ngôi trường tử tế, để các em cảm nhận được hơi ấm tình người, nhận được sự quan tâm chia sẻ.

    Trả lờiXóa
  7. Hành trình đến với con chữ của những đứa trẻ nơi đây có biết bao nhiêu là vất vả, điều kiện kinh tế thì yếu kém, có khi để cho các em đi học thì giáo viên cũng đã phải cố gắng vận động phụ huynh rất nhiều, vậy mà cái sơ sở vật chất để cho các em đi học thì lại quá yếu kém như vậy. Rất cần những sự quan tâm từ Đảng và Nhà nước để cho các em học sinh nơi đây có một ngôi trường khang trang sạch sẽ.

    Trả lờiXóa
  8. Hungyen363623:25 21/10/15

    Nhìn các lớp học của các em mà tôi thấy chua xót quá, tôi không hiểu rằng với lớp học thế kia các em làm sao có thể ngồi học được. Không xi măng, cốt thép, không gạch, không ngói chỉ là những tấm gỗ chắp vá lại với nhau đến đứa trẻ con còn chui lọt chứ đừng nói là mưa, nắng, bão gió. Hành trình đi tìm con chữ của các em nó nhọc nhằn quá, vất vả quá

    Trả lờiXóa
  9. Hoabinh023423:27 21/10/15

    Thiết nghĩ chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc, miền núi, các sở Giáo dục và Đào tạo cần tham mưu ban hành các chính sách của địa phương, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động các nguồn lực để đầu tư cho giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Các chính sách về giáo dục cần tập trung vào việc phát triển mạng lưới trường lớp, đối với trẻ em, học sinh, sinh viên DTTS, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục công tác tại vùng DTTS và miền núi, hải đảo.

    Trả lờiXóa
  10. Hoabinh03020023:29 21/10/15

    Đời sống bà con khu vực đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta còn rất nhiều vất vả, lo toan, thiếu thốn đủ mọi thứ. Chính vì vậy, lo cho con cái được cắp sách đến trường là cả một nỗi nhọc nhằn. Thời tiết ở khu vực này rất khắc nghiệt, mùa đông lạnh đến mức cái cây ngọn cỏ không chống chọi được, nhưng các em ở đây vẫn có lòng đam mê hiếu học, được cắp sách đến trường, được học cái chữ.

    Trả lờiXóa
  11. Thaibinh02340023:32 21/10/15

    Hành trình đến với cái chữ của trẻ em nơi đây còn gặp nhiều khó khăn nhưng mong rằng với sự qua tâm của Đảng, nhà nước và các cấp chính quyền cùng sự tận tâm của các thầy cô giáo sẽ mang lại cho các em một tương lai tốt đẹp hơn

    Trả lờiXóa
  12. Thaibinhquetoi23423:35 21/10/15

    Bên cạnh những chính sách hỗ trợ của Đảng và nhà nước thì các em nhỏ nơi đây cũng rất cần tới tấm lòng hảo tâm của mọi người để hành trình đến với con chữ của các em bớt khó khăn

    Trả lờiXóa
  13. Thế mới biết hành trình đến với cái chữ của trẻ em nơi đây gian nan tới cỡ nào. Nhìn các lớp học của các em mà tôi thấy chua xót quá, tôi không hiểu rằng với lớp học thế kia các em làm sao có thể ngồi học được. Hy vọng Đảng và Nhà nước sẽ có nhiều chính sách hỗ trợ hơn nữa để giúp đỡ các em.

    Trả lờiXóa
  14. Nhiều cảnh khó khăn mà nhiều lúc mình cứ nghĩ chỉ trong phim ảnh mới có. Thế nhưng thực tế lại tồn tại một cách sinh động. Các phòng học tạm ở đây, lớp học bằng gỗ, các cột kèo đều đã bị mối mọt, mộng mẹo nứt toác “há miệng” hết cả ra, gió bão có thể quật đổ bất cứ lúc nào. Vách được thưng bằng những tấm gỗ tận dụng vá víu, chằng đụp các kiểu mà vẫn không thể nào kín được. Chẳng lớp nào có cửa, mà có cửa cũng chẳng ích gì, gió núi và sương mù cứ thông thống ùa vào, mùa đông ngồi trong lớp cũng như đứng giữa trời. Lớp học như thế là nơi lý tưởng cho bầy gia súc thả rông trú ngụ qua đêm. Hành trình đến với cái chữ của trẻ em nơi đây thật sự quá khó khăn.

    Trả lờiXóa
  15. Trường học mà phải dùng từ "Chuồng học" để miêu tả đúng là quá sót sa. Thiết nghĩ chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục dân tộc, miền núi, các sở Giáo dục và Đào tạo cần tham mưu ban hành các chính sách của địa phương, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, huy động các nguồn lực để đầu tư cho giáo dục miền núi, vùng dân tộc thiểu số. Để cho cái chữ đến được với trẻ em nơi đây một cách thuận lợi hơn.

    Trả lờiXóa
  16. Thế mới biết những gì mình đang được hưởng còn tốt hơn nhiều ở những vùng cao vùng miền núi xa xôi. Đọc và nhìn những bức ảnh mà thấy sót sa trong lòng. Hy vọng Đảng và Nhà nước sẽ quan tâm hơn nữa đến hệ thống giáo dục vùng cao để các em được học cái chữ trong điều kiện tốt hơn.

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog