Chia sẻ

Tre Làng

SỰ BIẾN THÁI CỦA NGÔN NGỮ

Ngôn ngữ - tiếng nói, phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Đứng về mặt nào đó, ngôn ngữ là một tấm lăng kính phản ảnh khá trung thực hình thái xã hội con người. Nhìn vào thực trạng ngôn ngữ trên bình diện là một đối tượng nghiên cứu, và nghe tiếng nói có thể nhận ra xã hội đó đang ở giai đoạn nào, những hình thái chính trị, kinh tế, xã hội của giai đoạn đó ra sao.

Thầy tôi, Giáo sư Đinh Gia Khánh, từng nhấn mạnh ngôn ngữ cũng như một sinh vật có thể sinh ra và mất đi. Chính vì thế nên ngôn ngữ luôn luôn tồn tại hai trạng thái. Một là tử ngữ (những tiếng mất đi), hai là sinh ngữ (những tiếng phát sinh). Bên cạnh đó ngôn ngữ còn có sự biến thái - hiện trạng biến đổi nhóm ngôn ngữ của nhóm người theo từng nghề nghiệp, từng tầng lớp xã hội chịu tác động của hoàn cảnh xã hội, quan niệm, trình độ văn hoá, giáo dục.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX kinh thành Thăng Long dần dần được đô thị hoá, tầng lớp quí tộc mới, thương gia hình thành. Phương tiện giao thông hồi đó dành cho tầng lớp này ngoài ngựa, còn có các loại cáng, đểu (một thứ giống như kiệu). Những người phục vụ hai phương tiện này gọi là phu cáng, phu đểu bị coi là tầng lớp thấp hèn, bị khinh miệt nhất trong xã hội dạo đó. Vì quan niệm này nên trong ngôn ngữ răn dạy con thời này có câu: “Mày không học hành tử tế, lớn lên cũng chỉ làm đồ đểu cáng mà thôi”. Lâu dần danh từ chỉ hai nghề này được ghép lại thành một tính từ miệt thị “đồ đểu cáng”.

Hà Nội vốn là thành phố nhiều cây me, cây sấu, khi mùa hè về xuất hiện nhóm thanh, thiếu niên trèo me trèo sấu để hái, lượm hai loại quả này. Thời Pháp thuộc quan niệm những người làm nghề “trèo me trèo sấu” là hạng cùng đinh, mạt hạng trong xã hội. Danh từ này lâu dần trở nên duy danh để chỉ những kẻ ăn cắp vặt, lang thang, lưu manh, vô giáo dục, cơ nhỡ chốn Hà thành “đồ trèo me trèo sấu”… Dẫn hai ví dụ về sự biến thái, chuyển hoá ngữ nghĩa của ngôn ngữ để càng thấy rõ tác động của hoàn cảnh xã hội lớn lao như thế nào trong việc làm thay đổi trạng thái ngôn ngữ.

Minh họa: Lê Phương. 

Bên cạnh sự biến thái đó thì các nhà ngôn ngữ học luôn luôn khẳng định ngôn ngữ Việt Nam là một trong những ngôn ngữ thuộc loại có sức sống nhất trên thế giới. Trải qua mọi thăng trầm, biến động của lịch sử, ngôn ngữ Việt Nam chẳng những không mất đi, không bị nghèo nàn, biến dạng mà ngày càng phong phú, sinh động, vì biết chọn lọc, hoà đồng một cách hợp lý mọi loại ngôn ngữ ngoại lai khi du nhập vào nước ta. Sự biến hoá của tiếng Hán trở thành tiếng Hán Việt nhập vào hệ thống ngôn ngữ tiếng Việt Mường cổ (ngôn ngữ gốc của tiếng Việt), rồi sự du nhập của tiếng Pháp được chuyển hoá vào dòng chảy tiếng Việt là những ví dụ sinh động.

Ngày nay, dân tộc ta trong giao tiếp hàng ngày đã sử dụng thành thạo vốn ngôn từ có những từ xuất phát từ tiếng Hán chiếm đến 68% trong ngôn ngữ nước ta, và hàng loạt tiếng có gốc tiếng Pháp đã được Việt hoá một cách tài ba như “xà phòng, xoong, xích, líp, xích lô, ba gác…”. Tất cả sự chuyển hoá đều có qui luật trong ngôn ngữ…

Nhưng đến giai đoạn hiện nay nghe cách nói thường ngày của một số tầng lớp, nhất là giới tuổi trẻ, thì có thể nhận ra tình trạng ngôn ngữ nước ta, hay nói cụ thể hơn là tiếng Việt của chúng ta, đang bị biến thái theo hướng đáng báo động. Có thể nói sự biến thái này như một tiếng chuông báo động về ngôn ngữ, tiếng nói mà cha ông ta dày công xây dựng và giữ gìn suốt cả chiều dài phát triển của nền văn hoá Việt Nam.

Thực trạng của sự biến thái này ra sao?

Chỉ cần nghe qua trong giao tiếp hàng ngày đã thấy: một ông, một bà ở thành phố hay phụ cận cả đời không biết một chút tiếng Anh nào nhưng gặp nhau là buột miệng chào như người Mỹ “hê lô”. Để biểu hiện sự ưng thuận sau khi bàn bạc một công việc gì đấy bất kể trong lĩnh vực nào cũng hạ một câu “ô kê”, rồi “ô kê nhé”, “ô kê đi”, “ô kê ạ”. Một đứa trẻ lên ba tuổi tập nói khi ra về chào ông bà nội, ngoại cũng được bố mẹ nhắc “con bai ông bà đi”. Và đứa trẻ bập bẹ “bai bai ông, bai bai bà”.

Trong quán bia nơi ngôn ngữ được thả phanh sự biến thái này càng được gia tăng. Các bia sĩ nói với nhau: “Cậu phải Nông quốc Chấn thằng cha ấy đi. Không, hết tiền thì anh em mình phải Juven tút đấy. Còn tao, uống thế thôi, không tao lại ác xê nôn xong livơphun một trận thì mệt lắm”.

Trong lớp học, học sinh thì thào với nhau khi thầy giáo vắng mặt “Thầy đi đâu mà đầu lâu thế. Đã vậy thì bọn mình cứ thoải con gà mái đi”. Giới trẻ không chỉ đàm thoại với nhau bằng thứ ngôn ngữ biến dạng bất chấp tất cả qui luật của ngôn ngữ mà còn đua nhau biến tấu, trình diễn, xem đó như một thứ mốt thời thượng. Nhà xuất bản nọ đã cho ra đời một ấn phẩm đầy rẫy những từ, như “tự nhiên như cô tiên”, “ngất ngây con gà tây”, “tào lao bí đao”, “đã xấu lại còn xa”…

Sự biến thái, phá vỡ mọi qui luật của ngôn ngữ này càng có đất tung hoành dụng võ hơn trong các tin nhắn, trong chát, trong thư điện tử của lứa tuổi trẻ. Một câu nhắn tin: “Tối nay go out nhé. Nếu OK thì phone cho tui. Đồn có địch, no table” (tạm dịch “Tối nay đi nhé. Nếu được thì gọi điện cho tôi. Nhà đang có khách. Không bàn tiếp”…

Đó là chưa kể việc hay nói tục, nói trống không càng làm cho sự biến thái ngôn ngữ phát triển theo chiều hướng đáng ngại.

Nguyên nhân của sự biến thái

Nhờ sự đổi mới của nhà nước nên hơn hai chục năm nay, Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa trong mọi lĩnh vực từ kinh tế đến văn hoá. Nếu trong thời kỳ bao cấp dân ta chỉ được tiếp xúc với văn hoá cộng đồng các nước XHCN, trong đó chủ yếu là văn hoá Liên Xô, Trung Quốc. Ngoại ngữ được học trong trường từ phổ thông đến đại học là Trung văn, Nga văn thì đến giai đoạn này nền văn hoá thế giới tràn ngập vào nước ta, trong đó với thế mạnh tiếng Anh là ngôn ngữ được sử dụng phổ cập trong giao tiếp và trong nhiều lĩnh vực đã dần dần có có vị trí quan trọng trong sự đào tạo, giáo dục của nước ta. Điều này cắt nghĩa vì sao tiếng Anh lại có ảnh hưởng mạnh mẽ ở nước ta.

Ngày nay, điện thoại di động, máy tính kèm theo hàng loạt những ứng dụng của các phương tiện này là Internet, nhắn tin, chát, trò chơi điện tử... đã trở thành thông dụng được người Việt Nam, đặc biệt giới trẻ, ưa thích. Một trong những ứng dụng quan trọng ra đời là nhắn tin tất phải có một công nghệ nhắn tin kèm theo. Làm sao trong khoảng thời gian ngắn chuyển tải được lượng thông tin cần thiết đến người nhận là một yêu cầu. Đây chính là cơ sở để tạo ra số từ vựng nhắn tin, cũng đồng thời sinh ra sự biến thái của ngôn ngữ giao tiếp của giới trẻ nước ta. Sự chế biến cách viết trong nhắn tin cộng với việc sử dụng tiếng Anh đã thêm một lần làm gia tăng biến thái ngôn ngữ.

Ở bài viết này, tôi chưa nói nhiều đến sự hay nói tục của giới bạn trẻ như một mốt sành điệu mà tôi chỉ nói đến ảnh hưởng của lối nói trống không, cụt lủn không chỉ trong nhắn tin mà còn trong giao tiếp hàng ngày của giới trẻ. Nếu như ở một số ngoại ngữ phương Tây, ngữ điệu trong giọng nói khi dùng đại từ nhân xưng khẳng định thái độ tình cảm và cả thứ bậc xưng hô khác hẳn đại từ nhân xưng đa dạng của tiếng Việt có đầy đủ các thang bậc từ ông bà bố, mẹ, cô dì, chú bác... đến cả những đại từ nói lên sự khinh miệt hay tôn kính, gần gụi hay xa lạ... Đáng tiếc các bạn trẻ ít nhiều biết ngoại ngữ lại bị ảnh hưởng lối diễn đạt “vô nhân xưng” này nên thường đổ đồng cá mè một lứa trong xưng hô thường nhật.

Trong sự mở cửa chấp nhận sự hoà đồng thì bên cạnh những cái hay, cái tốt của các nền văn hóa, các trào lưu văn hoá trên thế giới, chúng ta cũng phải đối đầu với những gì độc hại, những gì không phù hợp với truyền thống, tập tục tính cách của dân tộc ta. Bên cạnh đó nền giáo dục nước trong thời gian qua dường như còn có lỗ hổng không nhỏ trong giáo trình đào tạo học sinh các cấp. Gíáo trình giáo dục các cấp của ta còn nặng về giáo dục kiến thức mà ít quan tâm đến việc giáo dục truyền thống, lịch sử, nhân cách đến đạo đức làm người cho học sinh… Phải chăng đây cũng là nguyên nhân sâu sa tạo ra sự biến thái đáng ngại của ngôn ngữ.

Cách đây gần một thế kỷ trong bài diễn thuyết bằng quốc văn của ông Phạm Quỳnh có câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn, tiếng ta còn nước ta còn”. Sự biến thái về ngôn ngữ đáng lo hiện nay chứng tỏ các nhà quản lý của nước ta chưa biết khơi gợi niềm tự hào về tiếng Việt, bảo tồn vốn quí báu của ngôn ngữ dân tộc. Sự chế biến tiếng Việt như hiện nay đâu chỉ thuần tuý ở sự xuống cấp trong ngôn ngữ mà nó còn là sự xuống cấp trong lối sống của một tỉ lệ không nhỏ người Việt trẻ.

Đáng buồn thay trong sự tác động để làm biến thái tiếng Việt lại có tác động không nhỏ của các nhà làm văn hoá. Gần đây việc không ít người cổ vũ cho thứ thơ viết và nghĩ lai căng rập theo cách viết và lối tư duy nước ngoài của đôi ba nhà thơ thạo ngoại ngữ cũng thật đáng giận. Đáng ra nhà thơ hơn ai hết phải làm cho ngôn ngữ dân tộc ngày càng trong sáng hơn, dân tộc hơn vậy mà... Tôi nhớ, nhà văn Mỹ nổi tiếng Herman Melville, tác giả hai tiểu thuyết lừng danh thế giới Typee và Omoo đã từng khuyên các nhà văn, nhà thơ Hoa Kỳ không nên viết như một người Anh, người Pháp. Ông khẳng định: “Các nhà văn chúng ta là nhà văn Mỹ… Thất bại trong việc sáng tạo ra cái độc đáo vẫn tốt hơn là thành công trong việc bắt chước”.

Vậy mà những câu thơ loằng ngoằng, bất chấp ngữ điệu, ngôn từ của tiếng Việt, cách nghĩ của dân tộc ta đã từng sáng bừng trong những trang viết của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Bính… lại được ca ngợi, tán thưởng thì trách chi các cháu thanh, thiếu niên không từ tấm gương mờ đó mà làm hỏng tiếng Việt thân yêu của chúng ta bằng những trò ảo thuật trong ngôn ngữ của họ

Nguyễn Hiếu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog