Chia sẻ

Tre Làng

GS Nguyễn Tiến Dũng: NẾU KHÔNG KIỂM SOÁT, VIỆT NAM DỄ BÙNG NỔ HÀNG CHỤC NGÀN "GIÁO SƯ CHIM CHUỘT"

GS Nguyễn Tiến Dũng: Nếu không kiểm soát, VN dễ bùng nổ hàng chục ngàn "Giáo sư chim chuột"

"Nhiều người nói "dân tộc VN hiếu học", tôi thì thấy nhiều trường hợp trong đó hám danh hơn ham học".

Giáo sư sinh ra để làm gì?

Những ngày qua, dư luận đã đề cập đến "chuyến tàu vét" khi số lượng GS, PGS 2017 tăng đột biến.

Cụ thể: Năm 2017 có 85 ứng viên được công nhận GS, 1.141 ứng viên được công nhận PGS (tăng 1,7 lần so với năm 2016). Chúng tôi đã có cuộc trò chuyện nhanh với GS toán học Nguyễn Tiến Dũng, GS Đại học Toulouse, Pháp.

Thưa ông, có thể hỏi ông một câu rất đơn giản: Giáo sư sinh ra để làm gì?

Từ "giáo sư", hay professor tiếng Anh, đều có nghĩa là người có trình độ rất cao (sư) và có truyền bá kiến thức (giáo) trong lĩnh vực nào đó.

Hiểu theo nghĩa chung như vậy, thì những nhân vật như Plato hay Khổng Tử có thể được gọi là những GS, tuy có lẽ không có một quyết định chính thức nào phong chức đó cho họ.

Hiểu theo nghĩa hẹp hơn thì GS là một chức vụ được phong, thường là tại một trường đại học hay viện nghiên cứu, gắn liền với lương bổng và trách nhiệm đào tạo và nghiên cứu ở mức cao nhất. Khó có thể hình dung một trường đại học tử tế mà thiếu GS.

Ở châu Âu có những trường đại học được thành lập cách đây nhiều thế kỷ (ví dụ như Đại học Bologna có từ năm 1088), còn ở Việt Nam các đại học mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 dưới thời thực dân Pháp, nên khái niệm GS còn "tương đối" mới.

Như vậy thì mục đích của việc làm GS ở VN khác ở Pháp và một số nước phát triển mà ông biết như thế nào?

Có một điểm khác biệt cơ bản giữa khái niệm GS ở Việt Nam và ở các nước tiên tiến (kể cả phương Tây và những nước láng giềng như Trung Quốc hiện tại), đó là: Ở các nước khác, chức GS là một công việc gắn liền với các quyền lợi và nghĩa vụ rõ ràng, và người ta "tuyển" người vào vị trí GS khi mà có vị trí như vậy đang trống.

Một người muốn thành GS thì phải tìm được một vị trí trống như vậy và phải được hội đồng tuyển việc nhận vào, chứ không phải ngồi sẵn một chỗ rồi cứ thế được nâng cấp lên GS mà không cần có vị trí trống nào.

Vì ở Việt Nam, GS là "phong lên cấp" chứ không phải "tuyển việc" nên việc lên cấp này không gắn liền với tránh nhiệm hay quyền lợi. (Tuy tất nhiên trên thực tế nó sẽ có ảnh hưởng đến trách nhiệm và quyền lợi, nhưng là một sự ảnh hưởng gián tiếp không rõ ràng).

Sự khác biệt thứ hai là, vì GS ở Việt Nam không gắn liền với trách nhiệm ở trường hay viện, nên có rất nhiều vị quan chức cũng được phong thành GS, PGS.

Ở các nước khác, khi đang làm quan chức thì thường không còn là GS nữa vì không thể cùng lúc làm tốt cả hai công việc đòi hỏi toàn bộ thời gian, đấy là không kể đến chức danh "GS danh dự" (chỉ là danh dự) hay "GS thỉnh giảng" (thỉnh thoảng đến giảng theo lời mời thôi, không phải là người của trường hay viện).

Chính vì chức GS ở Việt Nam thiếu sự gắn liền trực tiếp một cách minh bạch với trách nhiệm và quyền lợi (tuy có gián tiếp về chế độ), nên nó một phần bị biến thành danh hão, nhiều người muốn có chỉ để cho "oai".

Có nên để các trường tự phong GS, PGS?

GS Trần Văn Nhung, Tổng Thư ký Hội đồng chức danh GS Nhà nước đã có những lí giải rằng: Theo các quy định về tiêu chuẩn hiện hành, cho đến nay chưa có yêu cầu cụ thể, bắt buộc đối với ứng viên GS, PGS phải có bài báo quốc tế ISI, Scopus. Theo ông, đây có phải là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến lượng GS, PGS tăng đột biến?

Theo tôi hiểu, việc tăng đột biến chủ yếu do Bộ GD&ĐT đang muốn thay đổi quy chế xét GS, PGS từ năm sau. Nhiều người sợ theo quy chế mới thì sẽ khó được phong GS, PGS hơn nên họ đổ dồn việc xin chức danh vào năm nay, dẫn đến hiện tượng tăng đột biến.

Năm 2007, GS Nguyễn Tiến Dũng được được Ủy ban Quốc gia về đại học của Pháp phong hàm giáo sư hạng nhất (khi mới 37 tuổi) và đến 2015 ông được phong hàm GS hạng đặc biệt. Trước đó ông là thí sinh VN trẻ tuổi nhất đạt HCV Olympic toán Quốc tế (ở tuổi 15).

Có những người đủ "tiêu chuẩn Việt Nam" để được xét GS, PGS mà chưa nộp đơn ngay (từ các năm trước) nhưng năm nay họ quyết nộp để khỏi phải bị xét theo quy trình mới e chừng khó khăn hơn.

Đối với cá nhân từng người, thì đây là giải pháp tối ưu mà họ chọn lựa, không có cớ gì để bắt họ không được làm như vậy.

Còn chuyện không cần bài báo quốc tế ISI thì từ nhiều năm trước vẫn thế. Càng gần đây, sức ép cần có bài báo quốc tế để hòa nhập thế giới, đạt tầm quốc tế, mới càng mạnh lên.

Có ý kiến cho rằng: Cứ đà này, việc "phổ cập" GS, PGS ở VN cũng sẽ tưng bừng giống việc lạm phát hoa hậu. Nếu hoa hậu chỉ là người đạt giải cao nhất của một cuộc thi, thì GS, PGS cũng nên là người được một trường ĐH cụ thể phong, chứ đâu cần nhà nước. Ông nghĩ sao về điều này?

Một năm đột biến vì lý do đặc biệt thì chưa phải là "đà". Tôi đoán là sang năm số lượng được phong sẽ ít đi như cũ.

Vấn đề "GS có nên do trường tự phong" là vấn đề đã được tranh cãi nhiều ở VN. Các trường lớn trên thế giới đều tự chọn GS cho mình.

Nhưng nếu áp dụng một cách máy móc điều đó vào Việt Nam chưa chắc đã tốt, bởi vì họ làm được như vậy là do họ có các điều kiện mà Việt Nam chưa có.

Ví dụ như ở Singapore cửa hàng buổi tối không cần khóa cửa cũng không sao, ở Việt Nam mà cũng làm thế thì mất sạch.

Trường lớn trên thế giới có hội đồng khoa học đỉnh cao và làm ăn đàng hoàng, chỉ chọn người rất giỏi. Phần lớn các trường ở Việt Nam còn rất lâu mới tự lập được một hội đồng khoa học giỏi và minh bạch, nếu để các trường tự phong mà không có sự kiểm soát chất lượng của các định chế khoa học đáng tin cậy hơn thì đảm bảo là sẽ thực sự bùng nổ ra hàng chục nghìn những "GS chim chuột".

Ngay ở Pháp, tuy các trường tự tuyển GS, nhưng vẫn có ủy ban đại học quốc gia kiểm tra tư cách ứng cử viên của những người nộp đơn xin làm GS hay PGS tại các trường để có đảm bảo tối thiểu về chất lượng, có giấy chứng nhận đủ tư cách mới được ứng tuyển.

Ở Mỹ thì không có ủy ban trung ương này, tuy nhiên các đại học đẳng cấp quốc tế có sẵn hội đồng xét duyệt rất uy tín và có lấy ý kiến từ các chuyên gia lớn ở bên ngoài để đảm bảo chất lượng.

Ở VN, còn rất lâu mới gặp cảnh "mở cửa thấy GS"

"Mở cửa là thấy GS, PGS thì thật nguy hiểm. Trường nào cũng tự phong GS thì sẽ loạn GS, chả khác nào việc loạn bằng cử nhân hiện nay-thượng vàng hạ cám, có trường đào tạo chả đủ điều kiện cũng cấp bằng cử nhân. Loạn ĐH chưa giải quyết xong lại loạn GS nữa thì chết!" - GS Nguyễn Minh Thuyết đã lo ngại như vậy. Theo ông, lượng GS, PGS ở Việt Nam nhiều hay ít? Cần quản lý thế nào để không xảy ra lạm phát GS, PGS hơn nữa?

Nếu tính tỷ lệ GS trên đầu người dân thì Việt Nam có lẽ còn rất thấp so với thế giới, còn rất lâu mới "mở cửa thấy GS".

Vấn đề không nằm ở chỗ "Việt Nam có quá nhiều GS" (thực ra là còn quá ít so với nhu cầu của đất nước) mà nằm ở chỗ "chất lượng GS còn quá thấp".

Như tôi có viết trong trả lời câu trước, đúng là rất đáng lo ngại việc "loạn GS" nếu giao về cho các trường tự lo, khi mà không có gì đảm bảo chất lượng tuyển chọn ở các trường.

Những người "đã làm GS" thì hầu như chẳng còn cách nào tăng chất lượng của họ. Nếu có tăng là tăng với các GS mới.

Nhưng cũng sẽ có sự bất công nếu những người có trình độ ngang bằng trung bình của GS cũ không được phong trong những đợt mới vì thắt chặt các tiêu chí.

Và cũng bất công nếu một GS chất lượng quốc tế cũng chỉ là GS như những GS làng nhàng khác.

Theo tôi, để giải quyết vấn đề trên, cần làm đồng thời nhiều việc:

Một, càng ngày càng đòi hỏi thêm chất lượng với các GS mới, nhưng là một cách từ từ không nhảy quá nhanh.

Hai, tạo những vị trí GS lương cao trội hẳn dành cho những người thực sự có đẳng cấp quốc tế, và đối với những vị trí đó việc tuyển cũng cần khác đi, thiên về chất lượng hơn là hình thức.

Ba, ngay cả đối với các GS, PGS hiện tại chưa đạt chuẩn quốc tế, thì không phải là họ không có khả năng làm việc. Cần tạo điều kiện làm việc và thu nhập tốt hơn cho họ, đầu tư tốt hơn cho khoa học thì họ mới cho ra kết quả tốt hơn

Bốn, loại bỏ chuyện phong GS cho quan chức. Chuyển GS thành công việc ở trường và viện, ai làm quan thì thôi, hết làm quan đi về nghiên cứu giảng dạy lại thì mới lại thành GS, như vậy số lượng GS, PGS sẽ giảm đột biến ngay.

Theo ông, tính háo danh, thích oai và trọng hình thức của người Việt, tác động thế nào đến việc người người muốn có học vị TS và chức danh GS, PGS?

Chắc chắn là ảnh hưởng rất lớn. Nhiều người nói "dân tộc VN hiếu học" tôi thì thấy nhiều trường hợp trong đó hám danh hơn ham học, ham hiểu biết.

Nhưng nếu tôi nói "nhiều người Việt Nam hám danh" thì có thể sẽ bị nhiều người phản đối ngay lập tức.

***

Tỉ lệ GS, PGS, TS thấp so với thế giới

Theo một thống kê, Việt Nam có 24.000 tiến sĩ (trên tổng dân số hơn 90 triệu). Trong khi đó Mỹ có 322 triệu dân nhưng đã có 3.609.000 tiến sĩ, chưa kể tới 3.365.000 các tiến sĩ chuyên nghiệp (Các tiến sĩ chuyên nghiệp gồm có bác sĩ - tiến sĩ y khoa, dược sĩ - tiến sĩ dược khoa, nha sĩ - tiến sĩ nha khoa và luật sư - tiến sĩ luật khoa).

Tại Việt Nam, chỉ có xấp xỉ 0,06 GS và gần 0,4 PGS trên 10.000 dân trong khi đó ở Trung Quốc có 4 GS hoặc PGS trên 10.000 dân, gấp 10 lần Việt Nam. Tại Đức, theo thống kê năm 2014, nước này có 3 GS trên 10.000 dân.

Tại Việt Nam, chỉ có 0,2 GS hoặc PGS trên 100 sinh viên, còn ở Trung Quốc, có 0,2 GS hoặc PGS trên 100 sinh viên. Đức: 1,7 GS trên 100 sinh viên; Tại ĐH Pittsburgh (Mỹ), có hơn 13 GS, PGS trên 100 sinh viên.

***

Nghiên cứu khoa học tụt quá xa

Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, kết quả nghiên cứu khoa học của đội ngũ GS, PGS, TS ở VN tụt xa so với các nước trong khu vực ASEAN.

Trong thời gian 10 năm (1996 - 2005), các nhà khoa học nước ta chỉ công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí thuộc danh mục ISI, chỉ bằng 1/5 so với Thái Lan, 1/3 so với Malaysia, 1/14 so với Singapore.

theo Trí Thức Trẻ

15 nhận xét:

  1. Chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng "bùng nổ" Giáo sư. Có rất nhiều Giáo sư được phong hàm nhưng không đúng với thực chất của họ, rất nhiều những học hàm giáo sư đã được phê duyệt mặc dù những cá nhân đó chưa có nổi một công trình nghiên cứu nào. Bộ giáo dục cũng như các trường đại học cần xem xét lại vấn đề đang gây nhiều bức xúc này. Không thể để tình trạng này tiếp tục kéo dài được nữa, cần phải chấm dứt kịp thời.

    Trả lờiXóa
  2. Giáo sư ở Việt Nam tính ra thì không phải là nhiều, vậy nên việc tăng số lượng giáo sư thêm nữa cũng không phải là quá bất thường. Tuy nhiên vấn đề bất thường ở đây là sự tăng lên đột biến số lượng giáo sư trong năm nay với động cơ lách luật, lách quy định mới trong năm tới của bộ Giáo dục. Hơn nữa, chất lượng giáo sư Việt Nam là quá kém so với thế giới.

    Trả lờiXóa
  3. Thực trạng hiện nay của chúng ta là đang dung nạp một bộ phận không nhỏ GS, PGS kém chất lượng và không sánh tầm quốc tế. Điển hình là số lượng công trình nghiên cứu khoa học được công bố chuẩn ISI là quá ít so với khu vực và không đảm bảo được yêu cầu cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước hiện nay. Thực trạng này cần phải khắc phục sớm để nâng cao chất lượng đội ngũ tri thức nước ta.

    Trả lờiXóa
  4. Nặc danh21:29 10/2/18

    Nhiều người mang tiếng Giáo sư ,thậm chí Giáo sư tiến sĩ nhưng thật sự thiếu kiến thức tổng quát,có nghĩa là không học rộng,không biết rành một ngoại ngữ ,chứ đừng nói chi giỏi đa ngôn ngữ như Anh,Pháp,Nhật,Hoa ,Tây Ban Nha,và nhiều khi ...mặt lại xấu nữa !

    Trả lờiXóa
  5. Nguyễn Văn23:15 10/2/18

    Trích: "Nghiên cứu khoa học tụt quá xa:

    Theo báo cáo của Bộ GD-ĐT, kết quả nghiên cứu khoa học của đội ngũ GS, PGS, TS ở VN tụt xa so với các nước trong khu vực ASEAN. Trong thời gian 10 năm (1996 - 2005), các nhà khoa học nước ta chỉ công bố 3.456 công trình nghiên cứu khoa học trên các tạp chí thuộc danh mục ISI, chỉ bằng 1/5 so với Thái Lan, 1/3 so với Malaysia, 1/14 so với Singapore".

    ???

    Trả lờiXóa
  6. Đúng như giáo sư Nguyễn Tiến Dũng nói, nhiều người họ rất hám cái danh bởi đơn giản trong xã hội hiện nay chúng ta thường chỉ đánh giá con ngời ta từ cái danh chứ không bao giờ tìm hiểu kỹ cả. Và lơi dụng điều đó nhiều tổ chức cũng tự cho mình cái quyền phong danh hiệu để từ đó sih ra những tiến sỹ, giáo sư có thể nói là kém chất lượng. Điều này thật sự đáng quan ngại bởi nó sẽ tạo ra rất nhiều mặt xấu cho giới trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước.

    Trả lờiXóa
  7. Chẳng có nơi nào giống Việt Nam, hàng ngàn Tiến sỹ, Giáo sư đang làm công tác quản lý hành chính, chẳng biết những học hàm học vị ấy có ý nghĩa gì. "“Sâu" tiến sỹ và "canh" giáo dục”, có thể thực trạng này chỉ là “con sâu làm rầu nồi canh” nhưng nếu giáo dục vẫn là “nồi canh” thì chẳng có gì đảm bảo sẽ hết những “con sâu” làm rầu.

    Trả lờiXóa
  8. Thiếu gì các nhà Bác Học đại Tài , Nhạc sỹ , Họa sỹ ko lãnh đạo tí nào mà đời đời nhân loại biết đến và ca ngợi mãi mãi chẳng hạn ( Y-Ec -Xanh , Bethoven , Van-goc ... ) , cần gì phải làm bộ trưởng . Nông dân VN tự chế máy cày .... trong khi đó Tiến Sỹ làm cách nào sửa maý cũng ko xong . Lý luận thì Kiến cũng phải Bò ra .

    Trả lờiXóa
  9. Đây là một sự thật mà rất nhiều CBCNV của các cơ quan HCSN , cơ quan nghiên cứu .... đều biết nhưng ..... hội đồng giáo sư nhà nước " không biết " hoặc không cần biết ! Người dân hiểu nôm na , đã là GS , PGS thì phải là những người trực tiếp giảng dạy tại các trường ĐH hoặc các học viện Đây là một sự thật mà rất nhiều CBCNV của các cơ quan HCSN , cơ quan nghiên cứu .... đều biết nhưng ..... hội đồng giáo sư nhà nước " không biết " hoặc không cần biết ! Người dân hiểu nôm na , đã là GS , PGS thì phải là những người trực tiếp giảng dạy tại các trường ĐH hoặc các học viện , nhưng ở ta bây giờ , rất nhiều vị được phong học hàm chỉ để " oai " hoặc tương xứng với chiếc ghế đang ngồi ! , nhưng ở ta bây giờ , rất nhiều vị được phong học hàm chỉ để " oai " hoặc tương xứng với chiếc ghế đang ngồi !

    Trả lờiXóa
  10. Bây giờ yêu cầu bắt buộc, những ai có bằng giáo sư, tiến sỹ, ít nhất 1-2 năm phải có bài báo quốc tế, nếu sau 2 năm không có bài nào phải tước bằng, giảng viên phải biết nghiên cứu, nếu không biết nghiên cứu thì hướng dẫn sinh viên cái gì? Hiệu trưởng, trưởng khoa nào không có các nghiên cứu cũng phải từ chức.

    Trả lờiXóa
  11. Xã hội ta dù là xã hội học tập cũng chẳng cần tiến sĩ nhiều đến thế. Đào tạo ra tiến sĩ cho thật nhiều để làm gì trong khi công trình nghiên cứu khoa học ứng dụng thực tiễn quá thiếu vắng còn luận án thì xếp vào ngăn tủ thì cũng như không. Người ta hay mắng là "tiến sĩ giấy" cũng phải.

    Trả lờiXóa
  12. Chẳng qua là để giải quyết khâu oai, để làm đẹp hồ sơ lý lịch, để thỏa mãn tham vọng và danh vọng thăng tiến của không ít người, mà thôi. Nhưng cũng đừng nên chỉ trách cứ những kẻ háo danh. Để có những cơn "mưa tiến sĩ" như vậy, lỗi lớn thuộc về các cơ quan quản lý giáo dục, các đơn vị đào tạo, chắc chắn như vậy.

    Trả lờiXóa
  13. Theo thông lệ quốc tế, học vị Tiến sỹ chỉ có ý nghĩa đối với đội ngũ các nhà sư phạm, nhà khoa học có công trình nghiên cứu, ứng dụng, thậm chí phải có đội ngũ cộng sự và phòng thí nghiệm riêng. Ấy vậy mà trong số 24.000 Tiến sỹ hiện tại, thì 2/3 chẳng liên quan gì đến nghiên cứu khoa học, và cũng có không ít tấm bằng được cấp bởi các trường “ma”. Chỉ để có thể lên được cái ghế lãnh đạo

    Trả lờiXóa
  14. Ngày xưa mình còn đi học, nghe hơi thầy cô là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ thì trong suy nghĩ của mình là nể nang lắm, kham phục lắm. Học vài tiết rồi thì mình thấy cũng thường thường nhưng cứ nghĩ là nhiều khi mình dốt không hiểu hết ý của mấy ông. Đến sau này khi mình nhận thức toàn diện hơn thì đúng là toàn là giáo sư, tiến sĩ không ra gì. Đau đớn một thời mình đánh giá cao mấy ông.

    Trả lờiXóa
  15. Cũng không đâu như ở Việt Nam mà tỷ lệ tiến sĩ trong hàng ngũ lãnh đạo lại cao đến vậy. Nếu tính từ hàm thứ trưởng trở lên, số người có trình độ tiến sĩ ở Việt Nam cao gấp 5 lần Nhật Bản. Theo con số của Bộ GD&ĐT, đến năm 2013 có 633 tiến sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường đại học. Vậy 15.000 tiến sĩ còn lại ở đâu? Chắc chắn số còn lại là các vị lãnh đạo, công chức, làm việc tại cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước.

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog