Lâm Trực@
Thời gian gần đây, dư luận có những ý kiến chế nhạo khi gà lôi trắng được chuyển từ Nhóm IB sang Nhóm IIB trong Danh mục động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Lý lẽ mà một số người đưa ra là: loài này dễ nuôi, sinh sản nhiều, vậy thì còn gì là “quý”. Có người thậm chí mỉa mai rằng các nhà khoa học và cơ quan quản lý nhà nước “ngu dốt” khi vẫn xếp chúng vào diện quý hiếm. Để hiểu rõ, cần trở lại với nghĩa chuẩn xác của chữ “quý” trong pháp luật bảo tồn.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, “nguy cấp, quý, hiếm” là khái niệm pháp lý được định nghĩa tại Nghị định số 06/2019/NĐ-CP[1]. Danh mục này chia động vật thành Nhóm IB (cấm khai thác, sử dụng thương mại) và Nhóm IIB (có thể sử dụng nhưng bị hạn chế, phải có nguồn gốc hợp pháp). Như vậy, “quý” không mang nghĩa cảm thán, mà là một tiêu chí quản lý rủi ro đối với quần thể hoang dã.
Đối với gà lôi trắng (Lophura nycthemera), trong lần cập nhật mới nhất, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đưa loài này từ Nhóm IB sang Nhóm IIB, áp dụng từ ngày 1/7/2025[2]. Đây là sự điều chỉnh cơ chế quản lý: từ cấm tuyệt đối sang cho phép nuôi, kinh doanh có điều kiện. Điều đó không có nghĩa loài này “hết quý”. Chúng vẫn thuộc nhóm động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, vẫn chịu sự kiểm soát của Nhà nước.
Ở bình diện quốc tế, Công ước CITES – văn kiện mà Việt Nam là thành viên từ năm 1994 – cũng chia các loài vào Phụ lục I, II, III dựa trên mức độ rủi ro từ thương mại. Phụ lục I cấm tuyệt đối, Phụ lục II cho phép nhưng phải có giấy phép và chứng minh rằng hoạt động không gây hại tới sự tồn tại của quần thể hoang dã[3]. Như vậy, một loài có thể còn phổ biến trong điều kiện nuôi nhốt, nhưng nếu quần thể ngoài thiên nhiên có nguy cơ suy giảm, thì vẫn bị xếp vào danh mục quản lý.
Theo Danh lục Đỏ IUCN, gà lôi trắng hiện được xếp ở mức “Ít lo ngại” (Least Concern) trên phạm vi toàn cầu[4]. Tuy nhiên, nhiều quần thể ở Đông Nam Á đang suy giảm do mất sinh cảnh và săn bắt. Ngược lại, loài họ hàng gần – gà lôi lam mào xanh (Lophura edwardsi) – đã suy kiệt đến mức cực kỳ nguy cấp, nằm trong Phụ lục I của CITES và thuộc diện cấm tuyệt đối[5]. So sánh này cho thấy rõ: việc quản lý ở Việt Nam là bước đi phòng ngừa, tránh lặp lại thảm kịch bảo tồn.
Cái “quý” trong pháp luật, do đó, không thể đo đếm bằng số lượng trứng trong chuồng nuôi. Nó là sự ghi nhận rủi ro đối với quần thể ngoài tự nhiên, là thước đo trách nhiệm của con người trong việc giữ gìn cân bằng sinh thái. Việc mỉa mai “đẻ nhiều thì hết quý” không chỉ sai về mặt khoa học, mà còn xúc phạm tới những nỗ lực bảo tồn của cộng đồng khoa học và cơ quan quản lý.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mất rừng và buôn bán động vật hoang dã xuyên biên giới ngày càng phức tạp, hiểu đúng chữ “quý” là yêu cầu cấp thiết. Nó nhắc nhở rằng sự sống ngoài kia – trong những cánh rừng – mới là giá trị cần bảo vệ, chứ không phải vài lứa trứng trong chuồng nuôi.
Tài liệu tham khảo
[1] Chính phủ Việt Nam, Nghị định 06/2019/NĐ-CP ngày 22/1/2019 về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi CITES. https://vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-toanvan.aspx?ItemID=134369
[2] Báo Nông nghiệp Việt Nam, “Gà lôi trắng ra khỏi danh mục động vật rừng quý hiếm Nhóm IB”, 2024. https://nongnghiep.vn/ga-loi-trang-ra-khoi-danh-muc-dong-vat-rung-quy-hiem-nhom-ib-d441734.html
[3] CITES, Văn bản Công ước. https://cites.org/eng/disc/text.php
[4] IUCN Red List, Silver Pheasant (Lophura nycthemera). https://www.iucnredlist.org/species/22679310/92808482
[5] IUCN Red List, Edward’s Pheasant (Lophura edwardsi). https://www.iucnredlist.org/species/22679302/92808399
Gà lôi tự nhiên vẫn khác gà lôi nhân tạo; không thể đánh đồng được vấn đề đó được. Con vật đã là nuôi nhốt thì không phải là hoang dã, thế thì sự quý hiếm không nhiều nữa. Đồng thời, cũng cần nhận thức chỉ bảo tồn các loại động vật có nguy cơ tuyệt chủng; còn đã là đại trà thì không còn gọi là quý hiếm. Luật pháp đã có sự thay đổi theo hướng cập nhật để phù hợp và điều chỉnh quan hệ xã hội hiện tại.
Trả lờiXóacá thể nuôi phải có nguồn gốc hợp pháp theo quy định quản lý lâm sản. Chuồng trại phải xây dựng phù hợp với đặc tính sinh học của loài và tiêu chuẩn do cơ quan có thẩm quyền ban hành, hoặc được cơ quan cấp mã số nuôi thẩm định và chấp thuận
Trả lờiXóaSong song với tuyên truyền, công tác kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm được coi là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ và bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm, không chỉ ở Việt Nam mà còn tại nhiều quốc gia khác
Xóagà lôi trắng (Lophura nycthemera) vốn thuộc Nhóm IB trong Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm ban hành kèm theo Nghị định 06/2019/NĐ-CP, sửa đổi bởi Nghị định 84/2021/NĐ-CP. Việc thuộc Nhóm IB đồng nghĩa loài này bị nghiêm cấm khai thác, sử dụng mẫu vật từ tự nhiên vì mục đích thương mại
Trả lờiXóaYếu tố then chốt vẫn là sự chủ động tìm hiểu và nâng cao kiến thức của mỗi người dân. Trong bối cảnh các nguồn thông tin chính thống hiện nay đã dễ dàng tiếp cận, việc hiểu rõ giá trị của động vật hoang dã và các quy định bảo vệ là điều hoàn toàn khả thi
XóaNgay sau khi các văn bản pháp luật liên quan, trong đó có Thông tư số 27/2025/TT-BNNMT, được ban hành, toàn bộ nội dung đều đã được đăng tải công khai trên Cổng/Trang tin điện tử của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, cũng như trên các trang thông tin điện tử của các cơ quan quản lý chuyên ngành ở trung ương và địa phương
XóaCục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, gà lôi trắng đã được gây nuôi thành công ở một số cơ sở nhưng điều này không đồng nghĩa có thể đưa loài ra khỏi danh mục nguy cấp, quý, hiếm. Trong tự nhiên, quần thể loài gà lôi trắng đang suy giảm mạnh do mất sinh cảnh sống và bị săn bắt
Trả lờiXóaViệc có thể nhân giống một số loại động vật trong môi trường nuôi nhốt không đồng nghĩa với việc thành công nhân giống và giới thiệu được chúng về môi trường tự nhiên, số lượng loại động vật đó trong tự nhiên còn thể hiện sự cân bằng về mặt sinh thái, điều kiện sống tự nhiên của chúng, và nhiều yếu tố khác. Ở nhiều vùng trên thế giới, số lượng hổ nuôi nhốt còn cao hơn hổ sống tự nhiên, nhưng điều đó không có nghĩa là hổ không phải loại động vật đang bị đe dọa và cần được bảo tồn.
Trả lờiXóaNhiều người cho rằng cứ nhân giống đẻ ra thêm cá thể là góp phần vào “bảo tồn”, mà hoàn toàn lờ đi nhiều mặt quan trọng khác: nhân giống để bán chứ không tái thả, lai tạp mất nguồn gen gốc, cá thể bị nuôi nhốt đánh mất bản năng sinh tồn trong tự nhiên, tăng nguy cơ phối giống cận huyết với những quần thể quý hiếm và đặc biệt là các quần thể bị phân mảnh.
Trả lờiXóaĐúng rồi, mục đích cuối cùng của pháp luật chính là bảo vệ sự sinh sôi, duy trì bền vững của các loài trong tự nhiên, chứ không phải chỉ đơn giản là tạo ra càng nhiều cá thể càng tốt. Chừng nào số đông còn chưa hiểu được mục đích sâu xa thì mọi cố gắng bảo vệ đvhd đều trở thành công cốc.
Xóa