Chia sẻ

Tre Làng

Từ những va đập lịch sử: Nhận diện chiêu bài xuyên tạc dân chủ trong bối cảnh cách mạng Việt Nam

Từ những va đập lịch sử: Nhận diện chiêu bài xuyên tạc dân chủ trong bối cảnh cách mạng Việt Nam

I. Mâu thuẫn lịch sử – chất liệu cho các thủ đoạn chống phá

Lịch sử cách mạng Việt Nam, với điểm tựa là lực lượng công – nông và vai trò lãnh đạo trung tâm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tất yếu mang theo những va đập lợi ích với các nhóm xã hội có đặc điểm khác biệt về giai tầng, tư tưởng hay nguồn gốc kinh tế. Trong khi mục tiêu xuyên suốt của cách mạng là xóa bỏ bất công phong kiến và áp bức thực dân, thì không ít lực lượng bị tác động đã hình thành mâu thuẫn đối kháng, từ đó sản sinh những xu hướng chống đối. Các thế lực cơ hội, thất thế chính trị hoặc mang tham vọng quyền lực đã khai thác các mâu thuẫn ấy như công cụ để chống phá Nhà nước XHCN, khoác lên mình chiếc áo “dân chủ”, song thực chất là khôi phục quyền lợi giai cấp cũ hoặc rước ngoại bang trở lại.

Ba lát cắt nổi bật nhất thường bị lôi kéo vào các luận điệu “tự do, dân chủ, nhân quyền” là mối xung đột giữa Đảng và các thế lực quốc gia thân ngoại, các tầng lớp địa chủ – phong kiến và giới trí thức chịu ảnh hưởng tư sản. Những sự kiện lịch sử như vụ án phố Ôn Như Hầu, cải cách ruộng đất và Nhân văn – Giai phẩm thường xuyên bị trích dẫn lại một chiều, cắt xén ngữ cảnh lịch sử, nhằm bồi đắp cho tâm lý bất mãn và tâm thế chống đối.

II. Quốc Dân Đảng thời hậu khởi nghĩa và vụ Ôn Như Hầu: Tham vọng phục thù khoác áo dân tộc

Sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái (1930), dòng chảy Quốc Dân Đảng rơi vào phân hóa, nhiều tổ chức ly khai mọc lên, hoạt động chủ yếu dựa vào sự tiếp sức từ Trung Hoa Dân Quốc. Đến năm 1945, dưới sự bảo trợ của chính phủ Tưởng Giới Thạch, các nhóm này hợp nhất thành Đại Việt Quốc Dân Đảng (Việt Quốc), tích cực trở lại chính trường Việt Nam không phải để dựng xây độc lập mà nhằm tranh giành quyền lực trong bối cảnh đất nước còn non trẻ.

Từ việc lợi dụng báo chí như tờ Việt Nam để công kích chính quyền cách mạng, đến thiết lập 7 chiến khu tại miền Bắc với ý đồ chiếm cứ, Việt Quốc còn phối hợp với quân Tưởng để uy hiếp chính quyền địa phương, đặc biệt tại các tỉnh biên giới. Thoạt đầu, để tránh thế “lưỡng đầu thọ địch”, Việt Minh buộc phải dung hòa tạm thời trong Chính phủ Liên hiệp. Nhưng sau Hòa ước Sơ bộ 6-3-1946, khi quân Tưởng rút và Pháp quay lại miền Bắc, Việt Minh đã quyết đoán triệt phá Việt Quốc, khởi đầu bằng vụ án phố Ôn Như Hầu tháng 7/1946 – nơi phơi bày âm mưu đảo chính cùng vũ khí, tài liệu gián điệp trong trụ sở của Việt Quốc. Các thủ lĩnh lần lượt bỏ trốn sang Trung Hoa, hệ thống tổ chức tan rã.

Những người chống phá ngày nay vẫn nhai lại vụ án này như biểu hiện của "bàn tay sắt", nhưng thực chất đây là đòn phản công chính đáng để bảo vệ nền độc lập non trẻ khỏi một lực lượng nấp bóng dân tộc nhưng thực chất hoạt động như công cụ của thế lực nước ngoài.

III. Cải cách ruộng đất – một chương sử đậm đặc bi kịch và can đảm sửa sai

Ngay từ sau Cách mạng Tháng Tám, chủ trương cải cách ruộng đất được đặt ra với mục tiêu thay đổi căn bản quan hệ sản xuất ở nông thôn, trao quyền sở hữu đất đai cho nông dân, từ đó thúc đẩy sản xuất, gắn bó khối liên minh công – nông. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai từ 1953 đến 1956, dưới ảnh hưởng mô hình Trung Quốc và những sai sót trong đánh giá cán bộ – đối tượng, đã nảy sinh hiện tượng lạm quyền, cực đoan, dẫn đến những oan sai đau xót.

Tuy vậy, chính Đảng Lao động Việt Nam đã sớm nhận ra sai lầm, tổ chức chiến dịch sửa sai quy mô lớn từ năm 1956. Theo thống kê, khoảng 70 – 80% các trường hợp bị kết án oan đã được phục hồi danh dự, trả lại tài sản. Đảng cũng tổ chức tự phê bình và công khai xin lỗi nhân dân. Tuy nhiên, mâu thuẫn giai cấp bị khuấy lên trong giai đoạn đó trở thành chất liệu tuyên truyền cho các thế lực thù địch về sau. Những người tự xưng “đấu tranh dân chủ” liên tục dùng lại hình ảnh oan sai trong cải cách để phủ nhận toàn bộ giá trị giải phóng nông thôn của phong trào.

Chúng ta cần tỉnh táo rằng, mọi cải cách đều có tính chất lịch sử cụ thể, và dù có sai sót, nhưng dũng khí sửa sai công khai, kịp thời mới là tiêu chuẩn đạo đức chính trị cao quý, mà không nhiều lực lượng chính trị khác từng thể hiện.

IV. Nhân Văn – Giai Phẩm: Vết xước văn hóa bị lợi dụng chính trị

Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, bắt đầu từ năm 1955, vốn khởi đi như một cuộc đòi hỏi mở rộng không gian sáng tạo nghệ thuật, nhưng dần bị chi phối bởi những yếu tố bất mãn chính trị. Các cây bút như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… đã dùng các ấn phẩm để trực diện công kích đường lối văn hóa của Đảng, thậm chí kêu gọi biểu tình, tổ chức diễn đàn tự trị trên báo chí.

Sự kiện đình bản báo Nhân Văn cuối năm 1956 đánh dấu kết thúc của phong trào, sau khi nhiều nội dung bị phát hiện có tính kích động. Hầu hết các văn nghệ sĩ liên quan đều được xử lý ở mức kỷ luật hành chính, tham gia chỉnh huấn tư tưởng. Những năm sau này, nhiều người đã được phục hồi danh dự, có người tiếp tục được in ấn, xuất bản, tham gia sinh hoạt văn hóa.

Song những thế lực chống đối ngày nay không ngừng thổi phồng vụ việc như một biểu tượng “chống độc tài tư tưởng”, trong khi né tránh sự thật rằng ngay từ đầu, phong trào đã hàm chứa động cơ chính trị đối kháng hơn là thuần túy văn học nghệ thuật.

V. Trường hợp Trần Trọng Kim: Một kiểu “chính khách” dựa thế ngoại bang

Điển hình cho kiểu hoạt động chính trị lệ thuộc ngoại lực là trường hợp Trần Trọng Kim. Sau thời gian sống ở Nhật Bản, ông được quân phiệt Nhật đưa về Việt Nam năm 1945, nắm vai trò thủ tướng chính phủ thân Nhật, dưới sự kiểm soát của Hoàng đế Bảo Đại. Chính phủ này tồn tại vỏn vẹn vài tháng rồi sụp đổ sau Cách mạng Tháng Tám. Về sau, Trần Trọng Kim tiếp tục nhận lời thương lượng với Pháp, mưu tính lập chính phủ bù nhìn mới, nhưng bị chính người Pháp lừa dối.

Đường chính trị của ông không thể tách rời sự hậu thuẫn của thực dân, phong kiến, và khi Đảng Cộng sản vươn lên giành quyền lãnh đạo, điều đó tất yếu dẫn đến đối đầu. Việc dựng lại câu chuyện Trần Trọng Kim như một “vị cứu tinh bị lãng quên” chỉ là thủ pháp mỹ hóa một chương thất bại của xu hướng làm chính trị dựa vào thế lực ngoại bang.

VI. Kết luận: Phải tỉnh táo trước các chiêu bài xuyên tạc "dân chủ hóa"

Xuyên suốt các thời kỳ, có thể thấy rằng những lực lượng tự xưng là “dân chủ” hay “yêu nước” nhưng lại chọn con đường chống phá, công kích Đảng Cộng sản bằng các lát cắt lịch sử đều bộc lộ một điểm chung: không đưa ra được giải pháp chính trị khả thi, chỉ chăm chăm nuôi dưỡng hận thù và kích động chia rẽ.

Mỗi người dân cần nhìn rõ bản chất của những lời kêu gọi nhân danh “tự do dân chủ” nhưng thực chất là tiếp nối các lực lượng từng bị đánh bại lịch sử. Càng cần cẩn trọng hơn khi các mâu thuẫn lịch sử bị đào xới không phải để học hỏi mà để phủ định, kích động và lật đổ. Cách mạng không thể lặp lại quá khứ, nhưng cũng không thể bị xuyên tạc bởi những kẻ vẫn còn tiếc nuối dĩ vãng cũ.

5 nhận xét:

  1. Không khó hiểu khi một phong trào chính trị dựa hơi ngoại bang luôn chuốc lấy thất bại. Họ không đem lại bất cứ thay đổi nào ngoại trừ việc tạo nên những đám đông ồn ào, và đến nay, đám đông ấy vẫn không ngừng tuyên truyền bôi nhọ nói xấu Đảng Cộng sản..

    Trả lờiXóa
  2. Khôi Hài22:33 23/3/17

    Thật nực cười cho đám dân chủ cuội ở Việt Nam, họ những tưởng mình tài giỏi hơn người, thanh cao thánh thiện hơn người nhưng xem ra chỉ là một thứ cặn bã nhất trong xã hội này. Họ không những không từ một thủ đoạn nào đối với Nhân dân Việt Nam, chế độ XHCN và Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà còn đấu đá, tranh giành và chửi rủa lẫn nhau không khác gì một đám vô gia cư sống lang thang ngoài đường phố, một đám vô học, thiếu giáo dục. Ấy vậy, họ vẫn tỏ ra ta đây là người vì nước, vì non, vì cộng đồng, vì xã hội, con người. Thật không biết hổ thẹn về bản thân khi họ nhận những đồng tiền từ hải ngoại và đánh nhau cũng chỉ vì đồng tiền dơ bẩn đó. Không biết, rồi con cái họ, dòng tộc họ sẽ sống ở Việt Nam như thế nào trừ khi họ cũng "biến" khỏi Việt Nam như những thành phần bất hảo khác theo chính sách "tị nạn" nhưng có lẽ đó cũng chính là quả báo, là sự trừng trị đau đớn nhất mà gia đình họ, dòng tộc họ vẫn đang âm thầm phải gánh chịu hiện tại cũng như tương lai.

    Trả lờiXóa
  3. Hưởng ứng phong trào dân chủ trên thế giới, một số nhà kẻ ảo tưởng chính trị ở Việt Nam cũng a dua học đòi mong muốn tạo dựng một xã hội dân chủ theo kiểu phương Tây. Những người này nếu không gọi là HÂM NẶNG thì cũng thuộc dạng ảo tưởng sức mạnh của bản thân, nghĩ mình đủ khả năng để thay đổi đất nước Việt Nam. Họ lập ra đủ các loại hội nhóm để tập hợp lực lượng gồm một số người ấu trĩ về chính trị, họ dùng tiền để mua chuộc những người dân nghèo đi theo để tạo dựng đám đông nhằm chống đối lại chính quyền, gây rối ren bức xúc trong xã hội.

    Trả lờiXóa
  4. Không khó hiểu khi một phong trào chính trị dựa hơi ngoại bang luôn chuốc lấy thất bại. Họ không đem lại bất cứ thay đổi nào ngoại trừ việc tạo nên những đám đông ồn ào, và đến nay, đám đông ấy vẫn không ngừng tuyên truyền bôi nhọ nói xấu Đảng Cộng sản..

    Trả lờiXóa
  5. Sau ngày Việt Nam giành lại độc lập, Việt Quốc ráo riết hoạt động chống chính quyền non trẻ vừa thành lập. Trên mặt trận tư tưởng, họ cho xuât bản báo Việt Nam vào tháng 11/1945, liên tục bêu xấu, bôi nhọ Nhà nước, cáo buộc Hồ Chí Minh độc tài. Nhưng chính quyền và người dân mình ý trí chính trị vững vàng nên không bị lung lay trước những kẻ phản động như này.

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog