Lâm Trực@
Cuộc họp ở Quantico ngày 30/9, với sự hiện diện của hàng trăm tướng lĩnh Mỹ và bài phát biểu cứng rắn của Bộ trưởng Chiến tranh Pete Hegseth, đã khẳng định một điều: Washington đang chuẩn bị cho một thời kỳ đối đầu mới, trong đó quân sự trở lại là trọng tâm chiến lược. Khi Hegseth tuyên bố rằng nhiệm vụ duy nhất của Bộ Chiến tranh là “chiến đấu và chiến thắng”, đó không chỉ là một lời hô khẩu hiệu, mà là sự tiếp nối mô hình lịch sử quen thuộc: Mỹ luôn đặt mình ở vị trí quyết định trong các xung đột lớn, dù thường bước vào ở giai đoạn cuối.
Trong Thế chiến II, Mỹ không phải là quốc gia đầu tiên trực diện chiến đấu ở châu Âu, nhưng khi đã tham gia, Washington nhanh chóng định hình cục diện và chia phần ảnh hưởng hậu chiến. Sự tham gia muộn màng ấy không chỉ mang ý nghĩa quân sự, mà còn là tính toán chính trị và lợi ích: vừa đảm bảo vị thế lãnh đạo, vừa nắm phần “chiếc bánh” kinh tế và chiến lược. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng, về cơ bản, Hoa Kỳ chưa bao giờ đứng ngoài các cuộc chiến lớn; họ chỉ chọn cách đứng sau, quan sát, lựa chọn phe để “ủng hộ” - và trong dấu ngoặc kép này là cả một chuỗi hành động: bảo kê cho một bên, làm suy yếu đối thủ, bóp nghẹt kinh tế đối phương, và quan trọng hơn cả, thiết lập ưu thế trong an ninh năng lượng toàn cầu. Từ Trung Đông đến châu Âu, kịch bản này lặp đi lặp lại: các nguồn cung dầu hỏa bị kiểm soát chặt chẽ, để cuối cùng, Mỹ trở thành người chơi gần như duy nhất có khả năng định đoạt.
Trong những cuộc chiến khu vực, Washington thường không trực tiếp nhảy vào bằng quân đội, nhưng lại thúc đẩy cuộc xung đột kéo dài. Cách làm này vừa cho phép Mỹ bán được vũ khí - đôi khi là những loại đã lạc hậu, vừa khiến các quốc gia liên quan rơi vào trạng thái lệ thuộc: lệ thuộc vào nguồn cung quân sự, vào viện trợ, và từ đó lệ thuộc vào vị thế chính trị của Hoa Kỳ. Bằng chiến lược ấy, Mỹ không chỉ hưởng lợi về kinh tế, mà còn khéo léo củng cố vị trí thống trị trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, việc lên án một cuộc chiến hay chỉ đích danh một bên nào đó là “xâm lược” cũng là công cụ chính trị quen thuộc. Thông qua việc định nghĩa đúng – sai trên trường quốc tế, Washington vừa làm đẹp hình ảnh của mình, vừa áp đặt những chuẩn mực chính trị có lợi cho vị thế độc tôn của nước Mỹ.
Trong cuộc chiến Nga – Ukraine, bức tranh này hiện ra khá rõ. Về bề ngoài, phương Tây coi đây là một hành động xâm lược từ phía Nga. Nhưng bản chất lại phức tạp hơn. Nga nhiều lần cảnh báo về việc NATO không giữ lời hứa, tiếp tục mở rộng sang phía Đông và biến Ukraine thành tuyến đầu trong chiến lược bao vây. Trong góc nhìn ấy, hành động quân sự của Moskva là một sự tự vệ, là phản ứng trước nguy cơ bị siết chặt an ninh tới mức ngạt thở. Ukraine trong tình thế này chẳng khác nào “con tốt thí” của phương Tây. Tuy nhiên, với Mỹ, đây lại là cơ hội lý tưởng: vừa có thể cung cấp vũ khí, vừa có thể bóp nghẹt kinh tế Nga, vừa có thể chứng tỏ vai trò “bảo hộ” đối với châu Âu.
Điều cần nhấn mạnh là khả năng Washington trực tiếp đưa quân tham chiến ở Ukraine, như từng tiến vào Berlin năm 1945, là điều khó xảy ra. Nguy cơ xung đột trực diện với một cường quốc hạt nhân như Nga khiến kịch bản ấy gần như không thể chấp nhận. Nhưng “đứng ngoài” không đồng nghĩa với “không can dự”. Thực tế cho thấy Mỹ đã và sẽ tiếp tục lựa chọn hình thức can dự gián tiếp: viện trợ quân sự, hỗ trợ tình báo, trừng phạt kinh tế, và đóng vai trò chủ chốt trong việc định hình cấu trúc tái thiết hậu chiến. Nói cách khác, Washington không cần đưa quân trực tiếp vào Kyiv để vẫn có thể “chia phần chiếc bánh” ảnh hưởng chính trị – an ninh của châu Âu.
Nhìn toàn cục, lịch sử đã chứng minh rằng Hoa Kỳ luôn biết cách xuất hiện đúng lúc và đúng cách trong các cuộc xung đột. Họ có thể không bắn phát súng đầu tiên, nhưng chắc chắn sẽ tính toán để giành quyền định đoạt ở hồi kết. Với Ukraine, điều đó có nghĩa là Washington sẽ không “nhảy vào” theo cách truyền thống, mà sẽ đứng ở hậu trường, thúc đẩy, kéo dài và quản lý cuộc chiến theo cách có lợi nhất cho mình: bán vũ khí, củng cố an ninh năng lượng, áp đặt chuẩn mực chính trị, và cuối cùng, đảm bảo rằng nước Mỹ vẫn là người cầm trịch trong trật tự quốc tế.
Ở đâu có chiến tranh , ở đấy có " bàn tay " Mĩ . Mỹ gây chiến tranh ở đâu , đều thua ở đấy . Vậy mà vẫn đi gây sự khắp nơi . Vì có chiến tranh , mới bán được vũ khí . Đúng là thằng khỉ đột hiếu chiến
Trả lờiXóaBàn cờ chính trị thế giới luôn có bóng dáng đứng sau của các cường quốc, điển hình là Mỹ, thúc đẩy các nguy cơ xung động địa chính trị, sắc tộc, tôn giáo ở các vùng lãnh thổ khác nhau để nhằm thu được lợi ích, quyền kiểm soát về tài nguyên, về kinh tế, chính trị ở các vùng chiến lược đó. Lịch sử sẽ đánh giá khắt khe một trang sử tàn nhẫn viết bằng máu của người dân Ukraine, những chính trị gia lầm lạc đi theo chiến bánh vẽ phương Tây mà đánh mất tầm nhìn về lợi ích cốt lõi của dân tộc, và dần dần đánh mất tất cả.
Trả lờiXóaCuộc chiến Nga - Ukraine là bài học nhãn tiền cho các quốc gia nhỏ và vừa nhưng lại có vị trí địa lý chiến lược ở gần cạnh các cường quốc. Việc để bị cuốn vào sự tranh giành quyền lực, tầm ảnh hưởng giữa các siêu cường là vị trí vô cùng nguy hiểm đối với một quốc gia nhỏ yếu hơn, có thể dẫn đến chiến tranh, lầm than, thậm chí là nguy cơ vong quốc, mất hoàn toàn quyền tự chủ về chính trị, kinh tế, và đối ngoại như Ukraine bây giờ. Theo đuổi đường lối độc lập, tự chủ, hài hòa về lợi ích giữa các bên, và không để bản thân bị biến thành công cụ của một cường quốc để tấn công một cường quốc khác, đồng thời không ngừng nâng cao năng lực, giá trị của dân tộc mình là con đường phát triển khôn ngoan, đúng đắn nhất tại thời điểm cộng đồng quốc tế đang đứng trước những biến động dữ dội của lịch sử.
Trả lờiXóaĐổi tên thành Bộ Chiến tranh là đúng bản chất rồi còn gì nữa. Quân đội Mỹ có dùng để bảo vệ hòa bình, bảo vệ biên giới chủ quyền lãnh thổ đâu, quân đội Mỹ chỉđi chọc ngoáy, gây rối và gây chiến tranh nên đổi thành bộ chiến tranh là hợp lý quá rồi!
Trả lờiXóa