Chia sẻ

Tre Làng

"Chủ quyền làm người”: Từ ảo tưởng tư duy đến ẩn ức chính trị đội lốt đạo lý

Lâm Trực@

Tôi đọc bài viết “Chủ quyền làm người” của Huỳnh Thục Vy với tâm thế của một người từng chứng kiến bao nhiêu trào lưu tư tưởng du nhập vào Việt Nam như những cơn sốt trái mùa. Sốt, rồi nguội. Cái còn lại chỉ là mùi thuốc xức da thịt nhức buốt của kẻ không chịu lớn, luôn hậm hực về một “cái tôi” bị ai đó cướp mất, mà thực ra, đó là cái tôi không chịu bước ra khỏi sự ngộ nhận.

Thế kỷ XXI này, người ta thích nói về tự do như một thứ đạo lý phổ quát, như thể nó là khí trời ai cũng hít thở như nhau. Nhưng ai cũng biết, tự do – như bất cứ khái niệm nào trong nhân loại học – đều cần được đặt trong khuôn khổ lịch sử, văn hóa, thể chế và đặc biệt, lòng yêu nước. Một người ngồi trong căn phòng kín gió, viết những dòng chữ đạo đức khép nép như áo cà sa, nhưng trong đó lại hàm chứa sự tấn công đầy chủ ý vào khái niệm “quốc gia”, vào nền móng của thể chế chính trị mà hàng triệu người Việt đã ngã xuống để có được, thì người đó không phải đang viết triết lý. Người đó đang ngụy biện.

Huỳnh Thục Vy gọi đó là “chủ quyền làm người”, một kiểu độ chế ngôn ngữ dễ khiến những ai sống ở đô thị có gác lửng và thích uống cà phê sách thấy… hợp thời. Nhưng nếu nhìn kỹ, ta sẽ thấy đây là một sự hoán đổi nguy hiểm: biến chủ quyền cá nhân thành đối trọng của chủ quyền quốc gia. Ấy là khi người viết không còn nhận ra rằng cái quyền làm người, quyền được sống, được mơ, được nói chỉ có thể tồn tại được trong lòng một quốc gia độc lập, có luật pháp và có nhân dân. Không có quốc gia, xin hỏi: quyền ấy treo ở đâu? Hay chỉ là con diều lạc gió?

Tôi đã từng nói: tri thức mà không gắn với đất nước, thì chỉ là cánh bèo không rễ. Đạo lý mà không neo vào truyền thống dân tộc, thì là một thứ mưa phùn rơi lên sỏi đá. Và cái tư tưởng gọi là “toàn cầu hóa đạo lý” trong bài viết kia, thực chất, chỉ là cách nói hoa mỹ cho một kiểu phủ nhận những nền tảng chính trị cụ thể để cổ vũ cho sự lỏng lẻo quyền lực, nơi người dân biến thành những “tiểu vũ trụ” bất khả xâm phạm – nghe thì sang, nhưng lại mùi mẫn như tạp văn mạng xã hội.

Huỳnh Thục Vy không viết một bài viết mà thực ra, cô bày một trận ngôn từ, lùa bạn đọc vào một mê cung nơi mọi điều hiển nhiên trở thành có tội, và mọi điều lệch chuẩn lại được thần thánh hóa. Blogger bị bắt vì xuyên tạc sự thật? Là nạn nhân của “chủ nghĩa toàn trị”! Một nhà báo vi phạm pháp luật? Là biểu tượng của “tự do”! Một kẻ công khai phủ nhận thể chế? Là chiến sĩ của lẽ phải! Xin lỗi, những diễn giải như vậy không phải là tư duy mới. Đó là thứ tư duy cũ kỹ của chủ nghĩa phản thể chế, được gọt giũa bằng lưỡi dao mỹ từ học được từ các học viện nhân quyền phương Tây.

Đọc bài viết của cô Vy, tôi thấy một thứ “tự do” không cần quê hương, một thứ “quyền làm người” mà không cần dân tộc. Cô có thể tha thiết nói về thân thể, tư tưởng, phẩm giá cá nhân, nhưng tuyệt nhiên không một dòng nào dành cho những người đã ngã xuống trong kháng chiến, không một ý nào nghĩ tới sự hy sinh thầm lặng của biết bao người đang giữ gìn từng tấc đất biên cương. Một thứ tự do không đặt trong nền văn hóa hy sinh, thì là tự do trôi nổi. Tự do ấy như lửa rơm, cháy nhanh, rực sáng, nhưng không đủ ấm và không đủ lâu để dựng nên một mái nhà cộng đồng.

Tôi cũng từng nói: phụ nữ làm chính trị bằng trái tim không được phép đánh mất lý trí. Còn phụ nữ làm văn chương thì càng phải cẩn trọng với từng con chữ. Huỳnh Thục Vy viết như một kẻ vừa bị thế giới làm tổn thương, nhưng lại chọn cách trả đũa thế giới bằng sự phủ nhận triệt để: phủ nhận quốc gia, phủ nhận thiết chế, phủ nhận lịch sử. Ấy là bi kịch của một người không tìm được tiếng nói chung với cộng đồng nên tự biến mình thành một công dân… của cơn giận.

Và tôi thấy rõ, đằng sau bài viết ấy, không phải là khát vọng nhân văn, mà là bóng dáng tiếp diễn của một tư tưởng đối lập chính trị. Đừng ngộ nhận. Đừng tưởng rằng những lời hoa mỹ là sự thức tỉnh. Bởi trong nhiều trường hợp, đó chỉ là chiếc mặt nạ khôn lỏi của những người từng bước rời bỏ lòng yêu nước để đi theo ánh sáng lòe loẹt của “nhân quyền không biên giới”.

Ngôn ngữ là gương mặt của tư tưởng. Và khi ngôn ngữ được huy động để làm vũ khí chống lại quốc gia, chống lại trật tự pháp lý, thì đó không còn là ngôn ngữ của văn chương hay học thuật. Đó là ngôn ngữ của sự tha hóa – một sự tha hóa được đánh bóng bằng danh xưng “giải thưởng quốc tế”, “vinh danh nhân quyền”, nhưng trong bản chất, nó chỉ là sự tiếp nối dai dẳng của một bản năng chống đối, được khoác áo học giả.

Xin kết lại bằng một lời nhắn: Chủ quyền làm người, nếu không nằm trong chủ quyền dân tộc, thì mãi mãi là một chiếc bóng đẹp đẽ nhưng hư vô, bay lơ lửng giữa trời, không gốc rễ, không quê hương, và không đủ độ tin cậy để có thể dẫn dắt ai đi tới tương lai.

7 nhận xét:

  1. 1. Chủ đề và vấn đề tư tưởng nổi bật

    Bài viết không chỉ phản biện lại quan điểm cá nhân của một số người đưa ra luận điệu “chủ quyền làm người” theo hướng cực đoan, mà còn hướng tới một vấn đề tư tưởng sâu xa hơn: sự ngộ nhận giữa tự do cá nhân và trách nhiệm công dân, giữa quyền con người và chủ quyền quốc gia.
    Trong bối cảnh thế kỷ XXI, khi mạng xã hội trở thành “đấu trường tư tưởng” và mỗi cá nhân đều có thể tự xưng là “người cầm bút”, “nhà đấu tranh dân chủ”, thì bài viết của Lâm Trực như một lời cảnh tỉnh: tự do không thể tách rời kỷ cương, và nhân quyền không thể đặt cao hơn chủ quyền dân tộc.

    Tác giả đã chỉ rõ sự nguy hiểm của những tư tưởng nhập ngoại không qua “lọc văn hóa”, coi đó như “mùi thuốc kích thích” khiến một số người say mê, ảo tưởng, quên mất thực tế xã hội Việt Nam. Cụm từ “cái tôi bị cướp mất” mà bài viết nhắc tới không chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về sự mất phương hướng trong tư duy, mà còn là biểu hiện của tâm lý lệch lạc – lấy cá nhân làm trung tâm, tách mình ra khỏi cộng đồng, dân tộc.



    2. Phong cách lập luận và giọng văn chính luận sắc bén

    Lâm Trực sử dụng giọng điệu chính luận mạnh mẽ, giàu tính phản biện và không né tránh xung đột tư tưởng. Ngay từ nhan đề, bài viết đã thể hiện thái độ phê phán trực diện: “Từ ảo tưởng tư duy đến ẩn ức chính trị đội lốt đạo lý” – một cách nói vừa hàm súc vừa mỉa mai, gợi mở cho người đọc thấy rằng đằng sau những lời kêu gọi “tự do” và “chủ quyền làm người” đôi khi không phải là lý tưởng nhân văn, mà là động cơ chính trị trá hình.

    Tác giả vận dụng hiệu quả các thủ pháp lập luận phản chứng (chỉ ra sự phi lý trong luận điệu của đối phương), kết hợp với giọng châm biếm, mỉa mai nhẹ nhưng đầy sức nặng lý luận. Ví dụ, khi viết: “Thế kỷ XXI này, người ta thích nói về tự do như một thứ đạo lý phổ quát… nhưng ít ai biết, tự do – như bất cứ khái niệm nào trong nhân loại học – đều cần được đặt trong khuôn khổ lịch sử, văn hóa và lòng yêu nước”, tác giả đã khẳng định: mọi giá trị đều phải có nền tảng văn hóa – chính trị cụ thể, không thể nhập khẩu một cách máy móc.

    Trả lờiXóa
  2. 3. Ý nghĩa xã hội và giá trị cảnh tỉnh

    Bài viết của Lâm Trực có giá trị lớn về mặt định hướng nhận thức xã hội. Nó khơi gợi cho người đọc – đặc biệt là giới trẻ – suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề tự do cá nhân trong khuôn khổ tập thể, giữa quyền và nghĩa vụ, giữa cá nhân và Tổ quốc.
    Trong bối cảnh nhiều luận điệu sai trái, thù địch đang lợi dụng chiêu bài “dân chủ – nhân quyền” để công kích Việt Nam, bài viết là một tấm khiên lý luận, giúp độc giả nhận diện đâu là tự do thật, đâu là “tự do giả” – loại tự do dẫn tới vô chính phủ, cực đoan và phản văn hóa.

    Không chỉ dừng lại ở phản biện, tác giả còn nêu lên một định hướng giá trị nhân văn: “Tự do là để sống tốt hơn, không phải để chống đối hay tách mình khỏi đồng loại.” Đó là thông điệp sâu sắc, nhắc chúng ta rằng quyền con người chỉ có ý nghĩa khi được đặt trong mối quan hệ hài hòa với trách nhiệm công dân và sự tôn trọng luật pháp quốc gia.



    4. Nghệ thuật thể hiện và chiều sâu tri thức

    Điểm đáng chú ý là bài viết không sa vào công kích cá nhân, mà giữ lập trường lý luận vững chắc, dựa trên nền tảng tri thức xã hội học, văn hóa học và chính trị học. Cách dùng từ của Lâm Trực vừa giản dị vừa sắc sảo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ học thuật.
    Các ẩn dụ như “mùi thuốc kích thích”, “ảo tưởng tư duy”, “ẩn ức chính trị đội lốt đạo lý” thể hiện một ngòi bút tinh tế, giàu năng lực khái quát và phê bình tư tưởng.

    Tác giả cũng cho thấy cái nhìn xuyên suốt về lịch sử và căn tính dân tộc, khi khẳng định: “Tự do của người Việt Nam luôn gắn liền với lòng yêu nước, với khát vọng độc lập dân tộc.” Câu viết ấy vừa như một định nghĩa khái quát, vừa là lời nhắc nhở sâu sắc về bản chất nhân văn của tự do trong truyền thống Việt Nam.

    Trả lờiXóa
  3. Tự do không phải muốn làm gì thì làm, muốn nói thì nói, muốn gây sự với cá nhân, tổ chức. Không có bất cứ một quốc gia nào trên thế giới chấp nhận sự tự do đó cả. Tất cả chỉ là ảo tưởng mà thôi. Bất cứ một quốc gia nào cũng phải có những quy định để kiểm soát hành vi quá khích của con người, bao gồm cả vấn đề phát ngôn. Huỳnh Thục Vy chỉ ngang với bọn giang hồ mạng mà thôi. Bàn về tự do thì chưa đủ tuổi

    Trả lờiXóa
  4. Con này chắc nó bị ảo tưởng rồi, hay là bị mạng xã hội tiêm nhiễm nhiều thứ trên rời. Sống ở bất kì đất nước nào cũng phải chấp hành pháp luật của quốc gia đó, không thể thích làm gì thì làm, không có cái tự do quá trớn được. rất mong các cơ quan chức năng cần phải nghiêm trị những kẻ như vậy.

    Trả lờiXóa
  5. Khái niệm "toàn cầu hóa đạo lý" hay "nhân quyền không biên giới" thực chất chỉ là cách nói hoa mỹ cho một kiểu tư duy muốn phủ nhận nền tảng chính trị cụ thể. Tri thức cần phải có gốc rễ ở đất nước mình, nếu không nó chỉ là cánh bèo không rễ, dễ bị cuốn theo những trào lưu tư tưởng trái mùa.

    Trả lờiXóa
  6. Tôi thấy rõ sự ngụy biện trong việc thần thánh hóa mọi hành vi lệch chuẩn hay chống đối thể chế dưới danh nghĩa "tự do". Một xã hội văn minh không cho phép biến sự phản bội niềm tin công chúng thành biểu tượng của lẽ phải. Cần phải phân biệt rõ ràng giữa đấu tranh và chống phá.

    Trả lờiXóa
  7. Nặc danh02:42 22/10/25

    Bố con bọ . Không lo làm ăn, suốt ngày phá làng phá xóm , đòi tự do, chủ quyền .

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog