Lâm Trực@
Việc Hà Nội khởi công Nhà hát Ngọc Trai bên Hồ Tây những ngày đầu tháng 10 đã gây sự chú ý đặc biệt trong dư luận. Công trình được kỳ vọng trở thành một biểu tượng văn hóa – nghệ thuật mới, gắn liền với khát vọng xây dựng công nghiệp văn hóa và nâng tầm du lịch Thủ đô. Nhưng đồng thời, nhiều ý kiến trái chiều cũng xuất hiện. Trong số đó, bài viết “Ngọc Trai hay Vỏ Sò” của TS Nguyễn Ngọc Chu đã lan truyền mạnh trên mạng xã hội với nhiều lập luận phản đối. Đọc kỹ, có thể thấy bài viết chứa đựng không ít ngụy biện, so sánh khập khiễng và quy chụp, bỏ qua những căn cứ thực tiễn về sự cần thiết của công trình này.
Ngay từ đầu, tác giả đã đặt vấn đề rằng thay vì bỏ hàng nghìn tỷ đồng xây nhà hát, Hà Nội nên tập trung vào chống ngập, bởi người dân vừa trải qua đợt ngập lịch sử. Ông còn tính toán rằng số tiền đó có thể xây được những bể ngầm khổng lồ như Tokyo hay Seoul đã làm. Lập luận này đánh trúng tâm lý bức xúc của nhiều người dân, nhưng về bản chất lại là một sự đánh tráo khái niệm. Kinh phí xây dựng Nhà hát Ngọc Trai đến từ nguồn vốn xã hội hóa của doanh nghiệp, không phải từ ngân sách thành phố, càng không phải vốn đầu tư công dành cho hạ tầng chống ngập. Doanh nghiệp bỏ tiền để đầu tư vào một biểu tượng văn hóa, từ đó thu lại lợi ích kinh tế trực tiếp và gián tiếp. Họ không thể và cũng không có nghĩa vụ mang số vốn đó chuyển sang xây cống ngầm, hồ điều hòa hay bể chống úng. So sánh kiểu “nếu không làm nhà hát thì có tiền chống ngập” là một ngụy biện thay thế, dùng sự bức xúc có thật để chống lại một dự án hoàn toàn khác về tính chất nguồn vốn.
Trong bài viết, TS Chu còn viện dẫn các ví dụ Tokyo và Seoul, rằng những thành phố này đã xây dựng hệ thống bể ngầm chống ngập với chi phí khổng lồ, và ông thậm chí quy đổi số tiền xây nhà hát ra thể tích bể ngầm để kết luận Hà Nội chọn sai ưu tiên. Đây là một cách so sánh cơ học và khập khiễng. Tokyo và Seoul đã trải qua hàng chục năm quy hoạch đồng bộ, đầu tư công nghệ và ngân sách nhà nước khổng lồ cho các dự án đó. Hà Nội cũng đang triển khai hệ thống hồ điều hòa, cống ngầm và trạm bơm, nhưng không thể chỉ lấy chi phí trung bình của một nước khác rồi nhân chia ra con số “bao nhiêu mét khối” để đưa ra một giải pháp thay thế trên giấy. Việc làm đó không có giá trị khoa học cũng như tính khả thi trong quản lý đô thị.
Một luận điểm khác được ông Chu nhấn mạnh là Nhà hát Ngọc Trai sẽ chỉ có “sứ mệnh” làm tăng giá đất cho Sun Grand City. Đây là một sự suy diễn. Bất cứ công trình văn hóa hay hạ tầng nào cũng có tác động lan tỏa đến giá trị bất động sản xung quanh. Nhà hát Opera Sydney ở Úc, Nhà hát Quốc gia Bắc Kinh của Trung Quốc hay Esplanade Singapore đều khiến giá trị bất động sản khu vực tăng vọt, nhưng không ai vì thế mà phủ nhận ý nghĩa văn hóa và giá trị biểu tượng của chúng. Tác động này phải được nhìn nhận như một hiệu ứng tích cực của phát triển, chứ không thể bị quy kết thành mục tiêu “tăng giá đất” như một ý đồ ẩn giấu. Nếu theo logic của ông Chu, thì ngay cả việc làm đường, xây cầu, mở công viên cũng không nên làm, bởi tất cả đều khiến giá đất tăng.
Đáng chú ý, bài viết còn sử dụng thủ pháp tu từ cảm xúc: đặt hình ảnh “Hà Nội ngập lịch sử ngày 30/9/2025” cạnh “lễ khởi công Nhà hát Ngọc Trai ngày 5/10/2025”. Sự đối lập này tạo ra cảm giác mỉa mai, như thể xây nhà hát là nguyên nhân khiến Hà Nội ngập. Nhưng thực tế, ngập úng và phát triển văn hóa là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau. Một thành phố hiện đại không thể vì khó khăn hạ tầng mà bỏ mặc nhu cầu văn hóa và du lịch. Nếu tư duy rằng “cứ còn ngập thì không được xây nhà hát”, Hà Nội sẽ mãi mãi không có một công trình tầm vóc quốc tế nào.
Đáng bàn hơn cả, ở phần cuối, TS Chu đã lái vấn đề từ câu chuyện xây dựng công trình sang mô hình quản lý đô thị, cho rằng Hà Nội chỉ vươn mình nếu có thị trưởng do dân bầu. Đây là sự chính trị hóa câu chuyện, làm lệch trọng tâm từ một dự án văn hóa thành vấn đề thể chế. Cách đặt vấn đề này không còn mang tính phản biện chuyên môn, mà thiên về dân túy và nhắ thẳng vào cấu trúc chính trị của đất nước.
Cần nhấn mạnh rằng, Hà Nội hiện không hề có một công trình nghệ thuật biểu diễn quy mô tầm cỡ quốc tế. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đã xác định phát triển công nghiệp văn hóa thành một ngành kinh tế mũi nhọn, việc đầu tư một nhà hát lớn vừa đáp ứng nhu cầu sáng tạo nghệ thuật, vừa trở thành sản phẩm du lịch đặc sắc là điều tất yếu. Sydney Opera House từng bị phản đối dữ dội vì vượt dự toán, thậm chí bị coi là lãng phí, nhưng nay trở thành biểu tượng toàn cầu, mỗi năm mang về hàng tỷ USD từ du lịch và dịch vụ. Nhà hát Quốc gia Bắc Kinh với chi phí gần 3,5 tỷ USD, Esplanade Singapore với chi phí khoảng 600 triệu USD, đều cho thấy rằng so với các công trình quốc tế, Nhà hát Ngọc Trai với mức đầu tư hơn 9.000 tỷ đồng từ vốn xã hội hóa hoàn toàn không phải quá sức tưởng tượng. Trái lại, đó là sự đầu tư có tính toán và phù hợp với tầm vóc của một Thủ đô đang hướng tới vị thế trung tâm sáng tạo khu vực.
Những so sánh quốc tế này cũng giúp nhìn rõ rằng cái gọi là “xa xỉ” chỉ là cảm giác khi ta đặt nó trong bối cảnh ngắn hạn của một vài vấn đề hạ tầng, mà quên mất tầm nhìn dài hạn. Hà Nội không thể chỉ chăm lo cầu cống và cống thoát nước mà thiếu vắng một không gian văn hóa – nghệ thuật đẳng cấp để giới thiệu hình ảnh mình ra thế giới. Một thành phố văn minh phải song song giải quyết nhiều nhiệm vụ: vừa chống ngập, vừa phát triển kinh tế, vừa tạo dựng biểu tượng văn hóa.
Vì vậy, có thể thấy các luận điểm phản đối Nhà hát Ngọc Trai của TS Nguyễn Ngọc Chu chủ yếu dựa trên thủ đoạn đánh tráo khái niệm, so sánh khập khiễng, quy chụp lợi ích và ngụy biện cảm xúc. Ông đã bỏ qua tầm quan trọng của công nghiệp văn hóa, bỏ qua vai trò quảng bá hình ảnh Thủ đô trong thời kỳ hội nhập. Hà Nội cần những công trình có khả năng trở thành biểu tượng, thu hút du khách, góp phần chuyển hóa văn hóa thành động lực kinh tế.
Nhà hát Ngọc Trai, vì thế, không chỉ đơn thuần là một công trình kiến trúc để biểu diễn nghệ thuật. Nó còn là tuyên ngôn về khát vọng vươn lên, khẳng định Hà Nội không chỉ là thành phố của ký ức mà còn là thành phố của sáng tạo, hội nhập và tương lai.
Tiền tư nhân bỏ ra , chứ đâu phải tiền công quỹ nhà nước . Vậy bắt ông bỏ tiền túi của mình ra làm những việc ông không muốn . Ông có làm không ? Tranh luận để tỏ ra ta đây hiểu rộng , biết nhiều . Cái cốt lõi ông không biết , hay cố phớt lờ đi : đấy là tiền túi của doanh nghiệp tư nhân . Toàn " tiến sĩ giấy " , đấy mới là làm khổ dân
Trả lờiXóa