Chia sẻ

Tre Làng

'Chiếc áo' bằng cấp, chứng chỉ không làm nên một viên chức giỏi

“Chiếc áo không làm nên thầy tu", bằng cấp, chứng chỉ không hoàn toàn phản ánh năng lực thực chất của mỗi người và bản thân các chứng chỉ không có tội tình gì cả.

VietNamNet trao đổi với ông Nguyễn Tư Long, Phó Vụ trưởng Vụ Công chức - Viên chức (Bộ Nội vụ) về câu chuyện bổ sung bằng cấp, chứng chỉ của hàng triệu công chức, viên chức đã và đang thực hiện trong thời gian gần đây.

Các chứng chỉ không có tội gì cả 

Không chỉ câu chuyện yêu cầu về chứng chỉ chức danh nghề nghiệp trong việc xếp hạng giáo viên đang được dư luận quan tâm mà vừa qua còn xuất hiện câu chuyện hàng triệu viên chức của nhiều ngành nghề khác cũng ồ ạt đi thi, đi học để bổ sung các loại chứng chỉ vào hồ sơ của mình theo yêu cầu của các bộ chuyên ngành. Việc này, được hiểu như thế nào, thưa ông?

Tôi khẳng định luôn trong Luật Viên chức không quy định chứng chỉ là tiêu chuẩn mà chỉ yêu cầu phải có văn bằng, chứng chỉ phù hợp khi tuyển dụng. Như vậy không có vấn đề gì vướng mắc ở luật với câu chuyện quy định yêu cầu hay không yêu cầu chứng chỉ của các bộ ngành.

Ông Nguyễn Tư Long, Phó Vụ trưởng Vụ Công chức - Viên chức (Bộ Nội vụ). Ảnh: H.T

Nhưng ở đâu cũng thế, làm bất kể việc gì cũng phải có những tiêu chí, tiêu chuẩn. Muốn vào công tác ở một vị trí nào thì phải có một tiêu chuẩn nhất định.

Ví dụ như công chức nhà nước thì bắt buộc ngạch chuyên viên phải là đại học trở lên. Đối với một số ngành nghề thì người ta yêu cầu còn cao hơn như giảng viên đại học thì đương nhiên phải là tiến sĩ, thạc sĩ, không thể nào lấy người có bằng cử nhân đi dạy cử nhân được. Đấy là những tiêu chuẩn rất cụ thể của từng ngành nghề cụ thể. 

Còn hồ sơ của viên chức, ngay từ đầu khi tuyển dụng, viên chức đã phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện cần thiết. Việc này Luật Viên chức quy định phải “có văn bằng, chứng chỉ đào tạo, chứng chỉ hành nghề hoặc có năng khiếu kỹ năng phù hợp với vị trí việc làm”.

Khi các bộ chuyên ngành yêu cầu tuyển viên chức và từng vị trí một có những yêu cầu khác nhau và phải có những bằng cấp, chứng chỉ gì kèm theo.

Chẳng hạn như cùng bác sĩ nhưng bác sĩ nhưng chuyên ngành khác nhau thì yêu cầu bằng cấp, chứng chỉ khác nhau. Còn câu hỏi cụ thể vì sao có việc giáo viên ồ ạt đi thi, đi học để bổ sung các loại chứng chỉ thì tôi khẳng định không phải là quy định vướng trong Luật Viên chức. Cái này chắc chắn có nguyên nhân và nên chờ giải thích của bộ quản lý chuyên ngành.

Qua thực tiễn làm công tác tham mưu cho bộ về quản lý viên chức, ông thấy các văn bằng, chứng chỉ mà ngành này ngành kia yêu cầu hiện nay có đáp ứng được các tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp như Luật Viên chức đặt ra?

Để trả lời câu hỏi này thì phải nắm rất chắc về chương trình đào tạo, về nhu cầu của từng vị trí việc làm, nhu cầu của từng ngạch... Có những chứng chỉ chính là thể hiện đã đạt tiêu chuẩn, có những chứng chỉ nếu không gắn với tiêu chuẩn của ngành nghề đó thì không thể hiện đúng bản chất.

Ví dụ một bác sĩ không phải cứ ra trường là được mổ ngay, mà phải qua bao nhiêu giờ phụ mổ, bao nhiêu giờ làm công tác chuyên môn liên quan trực tiếp đến hoạt động nghề nghiệp của mình. Và chứng chỉ hành nghề y là chứng chỉ xác nhận cho một con người cụ thể đã hoàn thành yêu cầu đó. Khi đó, chứng chỉ đó chính là chứng chỉ đã đáp ứng tiêu chuẩn, và quy định tiêu chuẩn phải bắt buộc phải có chứng chỉ trong trường hợp này là hợp lý.

Bản thân các tiêu chí, tiêu chuẩn chắc chắn là cần thiết, các chứng chỉ không có tội gì cả nhưng cần chứng chỉ gì, nhu cầu đến đâu và mối liên hệ giữa chứng chỉ với tiêu chuẩn như thế nào thì tùy vào trường hợp cụ thể.

Bộ ngành phải rà lại tiêu chuẩn đối với từng chức danh nghề nghiệp

Vừa rồi, Luật Viên chức sửa đổi đã có một bước tiến là bỏ chế độ “viên chức suốt đời” chuyển sang chế độ hợp đồng. Vì vậy có ý kiến cho rằng, chỉ nên quy định yêu cầu những văn bằng, chứng chỉ cơ bản còn lại hãy trao quyền tự chủ cho người đứng đầu trực tiếp sử dụng lao động thỏa thuận với viên chức về câu chuyện bằng cấp, chứng chỉ?

Đấy cũng là một ý kiến cần nghiên cứu. Hoạt động của viên chức là hoạt động nghề nghiệp, quan trọng nhất là làm sao họ có đủ năng lực, trình độ để thực hiện công việc nghề nghiệp của mình. Bằng cấp hay chứng chỉ cũng đều phải gắn với việc thực hiện sao cho thật tốt nhất hoạt động nghề nghiệp của họ.

Tuy nhiên, nói gì thì cũng phải có yêu cầu đảm bảo được một mặt bằng chung. Chẳng hạn như cùng là cấp phổ thông thì không thể nói, yêu cầu giáo viên chỗ này thì khác chỗ kia theo quy định của hiệu trưởng từng trường được.

Nhưng việc chứng chỉ có phản ánh đúng thực trạng năng lực hay không thì lại là một câu chuyện khác. Quan trọng nhất là xây dựng những bộ tiêu chuẩn, chuẩn mực và làm sao cứ ai đạt được tiêu chuẩn này thì được vào dạy, bao nhiêu năm thì được thăng hạng, mỗi hạng có yêu cầu khắt khe hơn.

Như luật sư, công chứng viên hay một số ngành nghề khác họ đưa ra yêu cầu phải có chứng chỉ hành nghề có bị phản ứng đâu, vì cái chứng chỉ đó đúng là cần thiết và là điều kiện bắt buộc để họ được hành nghề, nó gắn với hoạt động nghề nghiệp của họ.

Để câu chuyện văn bằng, chứng chỉ đi vào thực chất, tránh tình trạng “làm đẹp hồ sơ” viên chức, theo ông cần phải có giải pháp gì?

Theo tôi, từng bộ ngành phải rà lại tiêu chuẩn đối với từng chức danh nghề nghiệp và trong từng chức danh nghề nghiệp phải rà lại tiêu chuẩn tương xứng với từng hạng chức danh nghề nghiệp. Căn cứ vào đó cần rà soát lại toàn bộ chương trình đào tạo, bồi dưỡng để tránh trùng lắp.

Nếu chứng chỉ bồi dưỡng, chương trình bồi dưỡng đúng với nhu cầu của viên chức, không được bồi dưỡng thì không đạt được trình độ, tiêu chuẩn của hạng chức danh và không được thực hiện một số nhiệm vụ ở mức độ yêu cầu cao hơn thì tôi nghĩ sẽ đi vào thực chất.

Hiện các bộ ngành đều có hệ thống về vị trí việc làm và các chức danh nghề nghiệp. Vì vậy, việc rà soát rồi hệ thống lại là hoàn toàn có thể làm được để đưa ra những yêu cầu về văn bằng, chứng chỉ phù hợp với tiêu chuẩn của từng ngành, nghề.

Ngoài ra, phải xem bản thân viên chức ngành đó cần những gì để có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, trình độ cho họ đáp ứng công việc đặt ra.

Chứng chỉ bản thân nó không có tội tình gì cả, quan trọng là nội dung bên trong chương trình bồi dưỡng cái gì, có đáp ứng được cho đúng hoạt động nghề nghiệp hay không và phải xuất phát từ nhu cầu của viên chức đó không.

Sắp bỏ chứng chỉ ngoại ngữ, tin học

Bộ trưởng Nội vụ Lê Vĩnh Tân nhiều lần cam kết trước Quốc hội kiên quyết loại bỏ những văn bằng, chứng chỉ không phù hợp như chứng chỉ ngoại ngữ, tin học... Vậy đến nay, Bộ Nội vụ đã hiện thực cam kết của Bộ trưởng như thế nào?

Theo chức năng quản lý nhà nước, Bộ Nội vụ quản lý về ngạch công chức hành chính nhà nước liên quan đến các tiêu chuẩn của các ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp.

Trước đây quy định ở các thông tư 05, 13 về tiêu chí bắt buộc ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp phải có chứng chỉ ngoại ngữ, tin học. Khi quy định này đi vào thực tế khá rườm rà cho đội ngũ công chức, vì không phải mọi vị trí đều cần một chứng chỉ như nhau.

Vì vậy, Bộ đang sửa thông tư theo hướng bỏ yêu cầu về chứng chỉ ngoại ngữ, tin học. Tuy nhiên, đặt ngược lại vấn đề, không phải không quy định về chứng chỉ thì hạ thấp yêu cầu về nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học.

Trong dự thảo thông tư sửa đổi mà Bộ Nội vụ sắp ban hành vẫn quy định, phải có trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng vị trí việc làm. Quan trọng nhất là tới đây các bộ, ngành, các địa phương sẽ xây dựng vị trí việc làm cần phải đáp ứng yêu cầu về ngoại ngữ, tin học như thế nào.

Việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học là một yêu cầu và quan trọng nhất là xuất phát từ yêu cầu tự thân của mỗi người. Nếu không tự nâng cao thì họ sẽ không thực hiện được công việc và sẽ bị bỏ lại một khoảng cách rất xa. Vì vậy, không nên đưa ra một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả.

Tóm lại, bằng cấp, chứng chỉ là một nền tảng để đào tạo nhưng bằng cấp, chứng chỉ cũng không hoàn toàn phản ánh năng lực thực chất của mỗi người. “Chiếc áo không làm nên thầy tu” là vì thế, quan trọng nhất vẫn là năng lực thực chất của mỗi người ở mỗi ngành nghề.


Thu Hằng thực hiện

8 nhận xét:

  1. Đối với một người muốn thi tuyển vào một vị trí nào đó thì dĩ nhiên là cần phải có đủ chứng chỉ mà vị trí đó đã yêu cầu sẵn. Trong quá trình làm việc, nên căn cứ vào thực tiễn để xem xét xem có cần thiết phải yêu cầu các chứng chỉ nào đó thêm cho người đó hay không, tránh đòi hỏi quá nhiều vừa gây khó dễ cho người làm việc mà lại không cần sử dụng đến những lĩnh vực trong chứng chỉ hay bằng cấp đó

    Trả lờiXóa
  2. Đúng thật bằng cấp chưa nói được lên hết năng lực của một con người, phải cấp bằng cho đúng năng lực của người đó, song cũng không nên quá coi trọng bằng cấp. Năng lực được thể hiện trong chính quá trình làm việc và còn thể hiện ở lương tâm nghề nghiệp của người đó nữa, qua thực tiễn mới có thể đánh giá năng lực một cách công tâm được.

    Trả lờiXóa
  3. Đối với một số vị trí không cần thiết phải có quá nhiều chứng chỉ vì nó không chứng minh được trình độ của người đó, hơn nữa không cần thiết. Một người giáo viên dạy học cho 100% thì không nhất thiết phải có chứng chỉ tiếng anh nếu như họ không cần dùng đến tiếng anh vì đâu ai giảng văn bằng tiếng anh đúng không mọi người?

    Trả lờiXóa
  4. Bằng cấp đúng là không nói hết trình độ con người nhưng con người muốn được tuyển chọn vào vị trí nào đó thì đúng là phải cần bằng cấp. Nhưng cái bằng đó phải là người thật, học thật chứ không phải là cái thứ có thể bỏ tiền ra mua chỉ với vài triệu hay vài chục triệu để rồi một kẻ vô học có thể đạt được vị trí của những người xứng đáng hơn

    Trả lờiXóa
  5. Cái việc phải có bằng cấp này bằng cấp kia đã vô tình tạo nên một áp lực vô hình đè nén lên đôi vai những người cán bộ. HI vọng đối với mỗi người, họ chỉ cần có bằng cấp đủ để chứng minh năng lực, hay có những chứng chỉ phục vụ công việc và chuyên môn của họ thôi thay vì phải thi những chứng chỉ ở đâu đâu mà không hề dùng tới

    Trả lờiXóa
  6. Chính vì áp lực bằng cấp chứng chỉ này nên có một bộ phận nhiều cán bộ đã tìm đến sự giúp đỡ của những tay làm bằng giả. Bởi vì không phải bỏ thời gian học hành họ vẫn có ngay một tấm bằng y như thật được làm giả. Tệ nạn dùng bằng cấp giả chứng chỉ giả cũng từ đó mà ra nên tôi nghĩ có thể giảm hay bỏ đi điều đó thì thật tốt

    Trả lờiXóa
  7. Hãy để ý thức nâng cao tin học ngoại ngữ là sự tự giác của mỗi người, do nhu cầu của chính họ. Đừng biến nó trở nên áp đặt và khiến cho những sai phạm có cơ hội được sinh ra. mỘt người dẫu có chứng chỉ tin học ngoại ngữ mà không dùng đến thì đúng là phí hoại của cải vật chất và công sức thi cử của họ

    Trả lờiXóa
  8. Năng lực thể hiện qua quá trình làm việc, qua cách thể hiện và cũng ở đạo đức nghề nghiệp. ngoại trừ những thứ bằng cấp chứng chỉ có cần thiết ra thì mong rằng sẽ không làm khó những người cán bộ bằng việc đưa ra quá nhiều tiêu chuẩn về bằng cấp, bởi vì khi mà không còn cách đáp ứng họ dễ nghĩ đến những việc gian dối như dùng bằng giả

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog